Đôi nét lịch sử Chùa Linh Quang Thượng Lâm
ĐÔI NÉT LỊCH SỬ CHÙA LINH QUANG Thượng Lâm tên đất tên làng đã có từ rất xa xưa, người Thượng Lâm thuộc cư dân đồng bằng châu thổ Sông Hồng về đây lập nghiệp khá sớm, đã khai sơn phá thạch tạo dựng trang ấp, làng xã đến ngày nay. Đạo Phật có mặt ở Thượng Lâm từ khi Thượng Lâm còn là trang ấp. Thượng Lâm có núi non hùng vĩ cảnh đẹp thiên nhiên còn in đậm nhiều dấu tích lịch sử, mảnh đất địa đầu yếu xứ, tiến có thế, lui có hậu, tiếp giáp trung du miền núi với châu thổ Sông Hồng, đứng trên non phóng hết tầm mắt nhìn thấy vựa lúa đồng bằng châu thổ phì nhiêu bát ngát. Nơi đây cảnh đẹp tự nhiên, núi non, hồ nước thật sơn thủy hữu tình, có núi Yên Ngựa, Chùa Đá Vách, Núi Cô Nàng, Đá Hàm Rồng, Núi Cửa Vua có long chầu hổ phục, với những di tích còn in đậm trong nhân gian như trống đồng Thượng Lâm , Trũng Ao Quan dưới triều đại Hai Bà Trưng. Trũng Đồn là đồn trại của nghĩa quân Đào Uy Đức đánh quân Tống, Chiêm dưới triều đại Lý Anh Tông thế kỷ XII. Trại Quan, Nhị Quan, Rừng Huyện là những dấu tích thời Hoàng Triều Vĩnh Hựu đầu thế kỷ XVIII.
Từ thủa xa xưa khu vực Đầm Sen nổi lên một gò đất cao hơn, gò ở phía Đông Bắc là Quán Sen thờ Thành Hoàng Bản Địa, gò ở phía Tây Bắc là Đình Hàng Xã, Trại Quan, Văn Mai. Gò phía Đông nam làng dựng chùa gọi là Chùa Thượng.
Chùa Thượng có tên chữ đầy đủ là Linh Quang Tự thuộc xã Thượng Lâm, là một ngôi cổ tự có từ xa xưa. Đã có từ những năm cuối thế kỷ XVII, được dân làng dựng ở gò Đống Sen với kiến trúc đơn sơ, sang thế kỷ XVIII dân làng trùng tu to đẹp và bền trắc hơn vào năm Quý Tỵ (1773 – Lê Cảnh Hưng) tháng 11 ngày 15 là ngày cất nóc. Năm Quý Sửu (1853) phải năm hồng thủy nước rừng đổ về quá mạnh, làm cho gò đất bị vỡ, chùa chôi tạo thành hoi ở giữa gọi là hoi nền chùa, hai đầu gọi là gò nền chùa trong, gò nền chùa ngoài. Sau đó làng di chuyển về khu vực Trũng Đồn dựng chùa, gọi là chùa Thượng tên đủ là Linh Quang Tự, và đúc chuông vào năm Đinh Tỵ niên hiệu Tự Đức triều đại nhà Nguyễn (1857), chuông nặng 200 kg, dài hai thước, rộng một thước bốn tấc. Chứng tỏ rằng chùa làm rất to, cột vững, xà khỏe mới đủ lực treo quả chuông nặng như vậy.
[1] . 1934, ông Trịnh Văn Bá phát hiện được trống đồng. Hiện nay để tại Viện bảo Tàng Lịch sử Việt Nam- Hà Nội. Ký hiệu ĐT.2114. Ngày 2-1-1976, ông Bùi Văn Hược lại phát hiện một trống đồng nữa, cũng để tại Viện BTLS VN Hà Nội- niên đại trống đồng: thế kỷ VII, thế kỷ IV Tr.cn.
[1] . Vua Tự Đức nên ngôi năm 1848- 1883.
Từ thế kỷ XIX đến thế kỷ XX chùa đã có đôi lần trùng tu, nhưng năm 1919 là đợt trùng tu lớn nhất trên nóc viết “ Hoàng triều Khải Định vạn vạn niên nhị tuế, Kỷ mùi, Giáp Tuất nguyệt, Canh Thân nhật, Canh thìn thời trùng tu đại cát xương”- nghĩa là: Triều Vua Khải Định năm thứ 2, vào năm Kỷ mùi, tháng giáp tuất, ngày canh thân, giờ canh thìn trùng tu đại cát xương.
Năm 2006 được sự quan tâm chỉ đạo của ĐU_ HĐND – UBND – UBMTTQ xã nhà, Ni Trưởng trụ trì Thích Đàm Nguyên cùng các đoàn thể, nhân dân Phật tử địa phương, đồng lòng xây dựng trùng tu lại ngôi Đại Hùng Bảo Điện (Tam bảo), khởi công ngày 19 tháng 02 năm 2006 (Bính Tuất), và được cất nóc vào giờ tỵ ngày 01 tháng 09 cùng năm, do Thượng tọa Thích Minh Hiền trụ trì chùa Hương và Ni trưởng trụ trì đặt nóc. Nóc viết “Phật kỷ nhị ngũ ngũ thập niên, Bính tuất niên cửu nguyệt sơ nhất nhật lương thời đại trùng tu thụ trụ thượng lương đại cát” – nghĩa là: Phật lịch 2550 năm, năm Bính tuất, tháng 9 ngày mùng một ngày lành giờ tốt dựng sửa chịu cột lớn lành. Đôi câu đầu chính gữa tiền đường bên tả viết “Thiền môn thâm tựa hải”, bên hữu viết “Phật pháp đại như thiên” – có nghĩa là: Cửa thiền sâu như biển, Phật pháp lớn như trời cao. Ban xây dựng do ông Trịnh Xuân Dự là trưởng ban, ông Nguyễn Văn Duyệt là phó ban. Trong chùa còn có nhiều các bức hoàng phi, câu đối khác nhau mang triết lý tán dương Tam Bảo (Phật – Pháp- Tăng) mang tính Triết học Phật giáo và nhân văn sâu sắc. Chùa được xây dựng với kiến trúc chữ Đinh, cổ diêm tám mái. Bên trong được bài trí tượng Phật, Bồ tát, cửa võng sơn son thếp vàng, với nghệ thuật điêu khắc, họa tiết hoa văn tinh sảo bởi các nghệ nhân, có giá trị và nghệ thuật thẩm mỹ rất cao, mang tư tưởng triết lý làm lành lánh ác, tu tâm tích thiện của Phật giáo hướng con người về Chân – Thiện- Mỹ.
Năm 2007 Ni trưởng cùng với nhân dân Phật tử tiếp tục trùng tu ngôi Tổ Đường, ngôi Tổ Đường 5 gian được khánh thành cùng năm, đây là nơi phụng thờ các vị Tổ sư đã khai sơn lập tự nơi đây. Đệ nhất thiền tổ là sư tổ Tỷ khiêu ni Bồ tát Thích Đàm Thuyền húy kỵ ngày 14/Giêng. Đệ nhị tổ là Tỷ khiêu Bồ tát Thích Thanh Cẩn. Đệ Tam sư tổ là Tỷ khiêu Bồ tát Thích Thanh Quang. Đệ tứ thiền tổ là Tỷ khiêu ni Bồ Tát Thích Đàm Nguyên.
[1] . vua Khải Định nên ngôi năm 1916- 1925.
[1] . Nóc chùa do Thượng Tọa Thích Minh Hiền trụ trì chốn Tổ Chùa Hương viết
Năm 2013 được sự nhất trí của cố Ni Trưởng Thích Đàm Nguyên, đại đức Trụ Trì Thích Minh Huyền, đệ tử Thích Đạo Tâm đã khởi công xây dựng ngôi nhà Phương Trượng được khánh thành vào mùng 5 tháng 9 năm Quý Tỵ, tiếp đó là cây dựng nhà Trai Đường năm 2018. Đến năm 2021 ngôi nhà thờ Mẫu đã xuống cấp trầm trọng. Nhà chùa cùng Phật tử tiếp tục khởi công trùng tu ngôi Ngọc Quang Điện. Ban xây dựng được thành lập đứng đầu là TT Thích Minh Huyền, ĐĐ Thích Đạo Tâm, sư cô Thích Nữ Hòa Viên, Ô Nguyễn Ngọc Hùng, ông Trịnh Xuân Dự, ông Nguyễn Văn Duyệt, Nguyễn Tiến Thành, Nguyễn Văn Mỹ, Nguyễn Văn Kiêu cùng các ông bà Phật tử. Ngôi Điện thờ với bố cục 5 gian, hậu cung, bằng gỗ lim và gỗ táu, được khởi công ngày 4 tháng 3 năm Canh Tý (2021). Đặt nóc vào ngày 15 tháng 04 cùng năm. Đây là nơi thờ phụng Thánh Mẫu, một nét văn hóa đặc sắc của cư dân đồng bằng Sông Hồng và tưởng nhớ công ân các bậc hiền thánh đã có công “Hộ quốc tỷ dân” như: Trần Triều Đại Vương, Thánh Mẫu Liễu Hạnh ..v..v
Lịch sử hơn 2000 nghìn năm của Phật giáo Việt nam luôn đồng hàng cùng dân tộc, chùa Thượng Lâm cũng không nằm ngoài tinh thần và sự phát triển ấy. Chùa Thượng Lâm không những là nơi thờ tự, học đạo, nguyện cầu cho muôn dân mà còn góp phần đáng kể vào công cuộc kháng chiến chống quân xâm lược của dân tộc Việt nam. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chùa Thượng là địa điểm bí mật được nhân dân bảo vệ an toàn, nhà chùa đã giúp đỡ nhiều cuộc họp quan trọng bàn về kháng chiến, kiến quốc của chi bộ Đảng của Ủy ban kháng chiến xã Thượng Lâm đã được tổ chức tại chùa. Chùa Thượng còn được trung đoàn Ký Con do ông Phùng Thế Tài chỉ huy, đã nhiều lần về đóng quân tại chùa. Năm 1969 chủ tịch Hồ Chí Minh mất chùa Thượng lâm được trọn làm địa điểm cho toàn dân tô chức lễ đài để tưởng nhớ Bác Hồ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ năm 1964 đến năm 1975, chùa Thượng được bộ chỉ huy quân sự khu 3 chọn là nơi huấn luyện nhiều lớp cán bộ chiến sỹ học tập chính trị, quân sự để ra chiến trường. Chùa Thượng còn được thiếu tướng Hoàng Sâm quân khu trưởng, thiếu tướng Tô Ký chính ủy quân khu về thăm bộ đội và động viên nhà chùa.
Các vị sư tổ đã có công khai sáng ngôi cổ tự, sống Từ bi- Hỷ xả, giáo hóa nhân dân làm lành lánh ác. Bên cạnh đó cũng có đóng góp lớn vào công cuộc kháng chiến – kiến quốc như Sư Tổ đệ tam Thích Thanh Quang đã cho một số đệ tử của mình theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ với tinh thần “Hộ quốc an dân” của Phật giáo đã “Gấp áo cà sa mặc chiến bào” tham gia kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Hay như Ni Trưởng Thích Đàm Nguyên đệ tứ thiền Tổ được UBMTTQ Hà Sơn Bình tặng Bằng khen; đã có đóng góp lớn trong công cuộc Phục Đạo Yêu Nước năm 1987.
Khuôn viên chuà rộng rãi thoáng mát với nhiều cây xanh cổ thụ, trong khuôn viên nội tự còn có Vườn Tháp, là nơi an trí tôn thờ Xá lợi của các đời Tổ sư. Ngoài ra còn có các công trình như: Nhà thờ Mấu, Tháp Phật, Nhà Bia, Tháp Bảo Đài, sơn động, hồ sen, cây táo cổ, bồn hoa cây cảnh..v..v tạo nên một khung cảnh thiền môn thanh tịnh trang nghiêm. Ngôi chùa đã tồn tại mấy trăm năm, minh chứng đồng hành cũng những giai đoạn lịch sử của quê hương đất nước. Chùa có hàng nghìn Phật tử quy y và sinh hoạt tu học hàng tháng vào ngày rằm và mùng một. Ngoài ra còn tổ chức các ngày lễ lớn của Phật giáo như Phật đản, Vu Lan, Thượng Nguyên, húy kỵ Tổ sư .v.v.. các Phật tử cũng là nhân tố quan trọng đóng góp vào công cuộc xây dựng quê hương nông thôn mới ngày nay, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; như hưởng ứng kêu gọi của MTTQ vào các chiến dịch ủng hộ lũ lụt, thiên tai, tổ chức lễ tri ân cầu siêu tới các anh hùng liệt sỹ vào các dịp Vu lan hay ngày 27/7 ..v..v.
Thưa quý vị!
“Mái Chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”
Chùa Linh Quang đã cùng đồng hàng với cư dân Thượng Lâm Trang trải qua bao biến thiên thăng trầm lịch sử, chứng kiến bao đổi thay của con người cảnh vật quê hương. Đã xây dựng đời sống tâm linh, giá trị văn hóa quê hương nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung. Mỗi người đệ tử Phật hôm nay và mai sau cần phải có trách nghiệm bảo vệ và xây dựng ngày một tố hảo hơn. Nguyện cầu cho Quốc thái dân an, nhân dân an lạc, nhà nhà an ninh. Phật pháp xương minh, chúng sinh đồng giải thoát.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát, Tác đại chứng minh.
Mạnh Hạ năm Tân Sửu Tỷ khiêu: Thích Đạo Tâm kính soạn.




