Đạo làm người qua học thuyết “nhân” của khổng tử, với học thuyết “từ bi” của phật giáo

36
11/12/2025

1. Mở đầu

Phương Đông bao gồm một vùng hết sức rộng lớn, từ Ai Cập, Babilon tới Ấn Độ, Trung Hoa… nơi đây sớm đã xuất hiện nhiều nền văn minh lớn của nhân loại. Với các trung tâm nằm bên những con sông lớn như: Hoàng Hà, Trường Giang (Trung Quốc); sông Ấn, sông Hằng (Ấn Độ); sông Nile (Ai Cập), Tigơrơ và Ơphơrát (Lưỡng Hà)… Nhìn chung lưu vực các con sông nói trên là những vùng đồng bằng phì nhiêu rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. khí hậu ấm áp, nguồn nước phong phú, đất đai màu mỡ và dễ canh tác, đã cho phép các quốc gia cổ đại phương Đông phát triển nông nghiệp thuận lợi. Người phương Đông cổ đại sống trên lưu vực các con sông từ thời nguyên thủy đã sớm phát hiện và lợi dụng những thuận lợi đó để phát triển sản xuất. Cùng với nông nghiệp, thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh, xã hội sớm xuất hiện giai cấp và nhà nước. Chính dựa trên những điều kiện đó, lịch sử triết học của các nước phương Đông xuất hiện từ rất sớm. Tiêu biểu như Phật giáo, Bà la môn giáo, Nho Giáo, Đạo giáo, Mặc gia, Âm dương gia….

Nếu như ở phương Tây, triết học được xây dựng bởi chủ yếu là các nhà khoa học, gắn liền với các thành tựu khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên thì ở phương Đông, triết học gắn với những hiền triết – nhà tôn giáo, nhà giáo dục đạo đức, chính trị-xã hội. Do vậy, các nhà triết học phương Tây thường thiên về giải thích thế giới theo nhiều cách, ngả theo hướng ngoại, mổ xẻ, tư duy duy lý, tách chủ thể với khách thể. Cái mạnh của phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ phát triển… và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng. Phương Tây đi gần mãi đến chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy luật… của toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức độ bản chất cao hơn… cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá, cách ly hoá, làm mất đi tính tổng thể. Trong khi đó phương Đông lấy xã hội, cá nhân làm gốc là tâm điểm để nhìn xung quanh. Do đó đối tượng của triết học phương Đông chủ yếu là xã hội, chính trị, đạo đức, tâm linh và do vậy xu hướng là hướng nội, lấy trong để giải thích ngoài, khuynh hướng nổi trội của phương Đông lại là hướng nội.

Nếu Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Ấn Độ Và Trung Quốc là những Trung tâm văn hoá triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn minh ấy. Một trong những tư tưởng triết học Phương Đông mà ý nghĩa của nó vẫn còn có giá trị cho đến tận ngày nay về vấn đề luân lý, đạo đức, chính trị- xã hội đó là những tư tưởng triết học của Nho Gia. Bên cạnh đó nhứng giá trị triết học về đạo đức, bình đẳng – xã hội, giải thoát, nhân sinh – vũ trụ quan …đồ sộ vĩ đại cho tới nay vẫn còn ảnh hưởng rộng lớn trên toàn cầu là những tư tưởng của Phật giáo.

Phật giáo và Nho giáo được du nhập vào Việt nam khá sớm, “Khoảng đầu kỷ nguyên tây lịch. Tài liệu chắc chắn cho biết rằng vào hạ bán thế kỷ thứ hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật giáo phồn vinh và quan trọng rồi, nhưng có thể đạo Phật đã du nhập vào nước ta trong thế kỷ đầu của kỷ nguyên”[1]. Từ khi du nhập vào Việt Nam Phật giáo đã được tiếp nhận một cách hòa bình và được bản địa hóa, tích hợp với văn hóa tín ngưỡng của người việt từ ngay buổi ban đầu, mà không có một sự mâu thuẫn đối kháng nào sảy ra. Tử tưởng, Từ bi, Nhân quả, Nghiệp báo … đã dung hòa với triết lý của cư dân nơi đây. Phật giáo đã nhanh chóng được tiếp nhận và đi vào đời sống văn hóa, có những đóng góp không nhỏ từ những ngày đầu dựng nước và ảnh hưởng rất đậm vào bản sắc văn hóa của dân tộc. Lịch sử của Phật giáo Việt nam luôn gắn liền với lịch sử của dân tộc. “Phật giáo đã từng thể hiện thành công vai trò hệ tư tưởng và đạt tới đỉnh cao văn hóa dân tộc cũng như tôn giáo dân tộc vào thời Lý – Trần và tiếp tục phát huy các giá trị văn hóa đó trong suốt chiều dài lịch sử văn hóa Việt Nam cho đến ngày nay”[2].

Nho giáo được du nhập vào Việt Nam, từ những năm đầu thế kỷ I, Nho giáo đã chính thức thâm nhập và từ đó trở đi, Nho giáo Việt Nam theo thời gian, ngày càng có sức ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực của đời sống, “ở Việt Nam, Nho giáo thâm nhập và tồn tại lâu đời. Không ai có thể phủ nhận ảnh hơởng của Nho giáo trong đời sống tinh thần và cuộc đấu tranh dựng nưức và giữ nước cảu dân tộc”[3], có thời kỳ tại Trung Quốc và Việt Nam (quốc gia có cả Nho- Phật- Đạo) đã hình thành nên tư tưởng Tam giáo đồng nguyên, cùng tịnh hành, cùng phát triển, bổ xung những chức năng cho nhau trong quá trình nhập thế phát triển.

Nho giáo với những học thuyết: Tam cương, Ngũ thường, Nhân trị, Chính danh… là những tư tưởng để “Tu thân – tề gia – trị quốc”… hướng tới xây dựng hình mẫu người “Quân tử” và hướng tới mục đích xây dựng một xã hội lý tưởng. Phật giáo với những giáo lý: Từ Bi, Nhân duyên, Trung đạo, Giải thoát –Niết bàn… hướng tới mục đích nhập thế cứu khổ giải thoát cho hiện tại và tương lai. Do vậy hai trường phái triết học này xẽ có nhứng điểm chung và khác biệt nhất định. Trong bài tiểu luận này, người viết với chút ít kiến thức nhỏ hẹp, mong muốn đưa ra những quan điểm của mình về sự tương đồng, dị biệt giữa quan điểm học thuyết “Nhân” của Nho giáo với học thuyết “Từ bi” của Phật giáo, do kiến thức vẫn còn thô thiển trong rừng trí tuệ của bậc Đại giác và Đức Thánh không sao tránh khỏi những điều thiếu xót. Kính mong thầy hoan hỷ.

2. Nội dung

Chương 1: Nho Giáo và Đạo Làm Người Qua Học Thuyết “Nhân”.

1.1 Sự Ra Đời Của Nho Giáo

Có thể nói, Nho giáo (mà giai đoạn đầu tiên của lịch sử Nho giáo là Nho giáo Khổng – Mạnh) là một trong những học thuyết có sức sống mãnh liệt trong lịch sử của nhiều nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nó đã vượt qua thử thách của không gian và thời gian để trường tồn cho đến ngày nay. Nho giáo không chỉ có ảnh hưởng tại nơi nó sản sinh ra là vùng Hoa Hạ mà theo thời gian, nó đã lan tỏa sự ảnh hưởng ra khắp Trung Hoa, sang cả các nước trong vùng Đông Á, Bắc Á, Đông Nam Á như: Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Trải qua hơn 2500 năm tồn tại và cho đến đến ngày nay, Nho giáo vẫn ảnh hưởng và có vai trò nhất định đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và con người.

Khổng Tử (551 – 479) được coi là người sáng lập ra Nho giáo và ông là người tiêu biểu nhất trong số các nhà Nho. Ông có tên chữ là Trọng Ni sinh vào cuối thời Xuân thu. Ông sinh ra ở nước Lỗ, Ấp Tâu, xã Xương Bình. Tổ tiên của ông là người có học. Bố của ông tên là Thúc Lương Ngột, cuối đời lấy vợ tên là bà Nhan Trưng Tại. Cuộc đời của Đức Khổng đầy thăng trầm trên con đường tiến thân trị quốc, nhưng lại rất rực rỡ trong việc giáo dục “Hữu giáo vô loại”, “để đào tạo những con người lương thiện, có lễ nghĩa, nhất là tạo một hạng sỹ quân tử có nhân, trí, dũng để làm quan giúp nước”[4].  Học trò của đức Khổng dạy được hơn 3000 ngàn học trò, trong đó có 72 học trò giỏi, trong số đó lại có 10 vị hiền tài xuất sắc. Ngài thọ 68 tuổi. Ngài đã trùng san các bộ: Thi – Thư – Lễ – Nhạc –Dịch Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh, tự tay soạn bộ Sử của nước Lỗ tên là Xuân Thu Chiến Quốc. 50 tuổi ông mới bắt đầu để tâm vào học kinh dịch và cuối đời ông đã viết được bộ Thập Dực để hỗ trợ cho kinh dịch. Khổng tử không sáng tác, bộ Luận Ngữ để lại rất có giá trị để nghiên cứu tư tưởng của Ngài lại chính là những học trò của Ngài biên tập lại. Sau khi Khổng Tử mất, học thuyết của Ngài được các học trò kế tục nhưng được phân chia thành nhiều phái, mỗi phái lại bổ sung, phát triển về nội dung, tính chất khác nhau so với tư tưởng đạo đức của Khổng Tử. Phái đạo đức của Tăng Tử ở nước Lỗ truyền đến thế kỷ IV TCN thì có Mạnh Kha (372 – 289 TCN) tự là Dư, thường được gọi là Mạnh Tử, là thế hệ học trò thứ tư đã tiếp tục phát triển tư tưởng đạo đức của Khổng Tử. Sau đó khoảng 40 – 50 năm, Tuân Tử (298-239 TCN) cũng kế thừa tư tưởng Khổng Tử  nhưng theo hướng khác. Thời Xuân Thu – Chiến quốc, Nho giáo thường được gọi là Nho giáo Khổng – Mạnh. Nho giáo cũng có rất nhiều giai đoạn thời kỳ khác nhau như: Nho giáo Tiên Tần, Tống Nho….

Các sách kinh điển của Khổng giáo đều hình thành dựa trên học thuyết của Khổng tử do ngài soạn thảo, hiệu đính và do học trò ghi lại những lời dạy của Ngài. Sách kinh điển gồm hai bộ: Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Khổng giáo. Ngũ Kinh bao gồm

  1. Kinh Thi: là những bài thơ dân gian có từ trước thời Khổng tử, đã được Ngài san định lại thành 300 thiên, với những nội dung về tình cảm trong sáng, lành mạnh, nói nhiều về tình cảm nam nữ.
  2. Kinh Thư: ghi lại các câu truyện về các vị vua đời trước, được san định lại để cho các vị Vương quân học để tránh ác như Kiệt Trụ, noi gương như Nghiêu Thuấn.
  3. Kinh Lễ: là những ghi chép về Lễ nghi đời trước, Khổng Tử san định lại, với mong muốn khôi phục lễ, nhằm lấy đó để duy trì ổn định trật tự xã hội.
  4. Kinh Dịch: nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,…
  5. Kinh Xuân Thu: ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị nước nên ông chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời thoại để giáo dục các bậc vua chúa.

Tứ Thư bao gồm: Luận Ngữ- Đại Học- Trung Dung- Mạnh Tử.

Học thuyết của Không tử xoay quanh vấn đề về Tự nhiên –Con người- Chính Trị, quan điểm về luân lý đạo đức. Theo Khổng Tử một con người có đạo đức phải bao gồm cả 3 yếu tố: Nhân, Trí, Dũng. Bên cạnh đó còn có quan điểm về Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức… để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt xã hội, chính trị và an sinh xã hội. Tam Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ Đức là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội được an bình.

“Về nội dung đạo đức,  Nho giáo nêu lên những; Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trực, Dũng, Cương …Trong đó Nhân là đức lớn nhất, được nhắc đến nhiều nhất, bao gồm tinh túy tất cả các đức khác, vì đức Nhân chính là Người”[5]

1.2 Đạo Làm Người Qua Học Thuyết Nhân Của Khổng Tử.

Nhân” là quan niệm chủ chốt của Nho giáo. Nhân không chỉ là một đức tính mà còn là nền tảng cho các đức tính khác. “Theo từ điển Hán Việt 仁 (Nhân) có nghĩa là cái đạo lý làm người phải thế mới gọi là người, yêu người không lợi riêng mình gọi là nhân”[6]. Theo“Thuyết văn giải tự” giải thích chữ “Nhân” nghĩa là “hai người”, mang hàm nghĩa thân thích, yêu thương (Nhân, thân dã, tòng nhân, nhị). Với nghĩa nguyên sơ này, nhân nghĩa là sống với người khác, đối xử với người khác một cách lương thiện và tốt đẹp, vì vậy nhân không chỉ là sản phẩm giữa hai người hay nhiều người với nhau, mà còn là đặc tính căn bản của đạo làm người.

Luận về đức nhân Khổng nói: 子曰:仁者爱人 . Tử viết: nhân giả ái nhân, nghĩa là người có đức nhân phải yêu thương rộng khắp mọi người (Luận Ngữ: Nhan Uyên 21). Vì rộng rãi, cao xa, đức Nhân không có một định nghĩa nhất định. Đức Khổng giảng dạy đức Nhân cho các đệ tử không theo một giáo trình định sẵn;((Ngài chỉ tùy theo trình độ, khuynh hướng của mỗi đệ tử, mỗi tình huống, mỗi hoàn cảnh mà dạy về đức Nhân cho thích hợp. Trước thời Khổng Tử ít nói về “Nhân” mà chỉ nói “Khoan”. Nhưng tới Khổng Tử ông nói nhiều về khai niệm “Nhân”, nhất là trong Luận Ngữ nhắc nhiều lần về Nhân và được đưa lên là điều quý nhất -“Nhân sinh chi đạo”. Nhân được đưa ra rất nhiều khái niệm, tùy từng hạng người có khác nhau, nhưng theo Giản Chi- Nguyễn Hiến Lê nhận định trong Đại cương triết học Trung quốc thì khi Tử Cống hỏi về Nhân được Khổng Tử trả lời là đoạn khái niệm đầy đủ nhất:

“Tử Cống viết: như hữu bác thí ư Nhân. Nhi năng tế chúng, như hà? Khả vị nhân hà?

Tử viết: hà sự ư nhân? Tất dã thanh hồ! Nghiêu Thuấn kì do bệnh chư! Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi, lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận thư thí, khả vị nhân chi phương dã dĩ – (Ung dã)”

Nghĩa là: Tử Cống hỏi: tỉ như có người thi ân bá đức cho khắp nhân gian mà có thể giúp được cho dân chúng, thì người ấy thế nào? Gọi là người Nhân được không?

Khổng Tử đáp: sao lại chỉ gọi là người Nhân thôi? Phải gọi là bậc thanh mới đung, đến như Nghiêu Thuấn còn làm không nổi! người Nhân thì mình muốn tự lập mà cung xgiups người được tự lập, mình muốn thông đạt mà cũng giúp người được thông đạt. Lấy cách đối đãi với mình mà đối đãi với người, làm Nhân chỉ có thế thôi

Đối với ngơời bình thường như ông Phàn Trì hỏi về đức Nhân, Khổng tử trả lời rất gọn là ái nhân, đây là định nghĩa đơn giản nhưng có thể áp dụng đối với mọi người và mọi nơi. . Đối với Tử Cống, Đức Khổng lại nói: 子曰:己欱立而立人,己欱达而达人,己所不欱,勿施於人  “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân, kỷ sở bấất dục, vật thí ư nhân: Phàm, người nhân là mình muốn nên thì nên cho người, mình muốn thành tựu thì thành tựu cho người, điều mình không muốn thì cũng đừng làm những điều ấy với người khác” (Luận Ngữ: Ung Dã 28). Nhân là đức hạnh nền tảng trong đạo làm người. Đó là yêu thương, giúp đỡ, cứu vớt mọi người. Đức Nhân được thi hành trọn vẹn thì nên bậc thánh. Bậc nhân lý tưởng là người coi mọi người chung quanh như mình, yêu mọi người như yêu mình; mình muốn điều gì tốt thì thi hành cho mọi người như thế; không có sự phân biệt giữa ta và người. Cứ thực hành liên tục như thế không mệt mỏi, không thay đổi thì trở nên bậc thánh.

Đối với người có trí hướng của bậc Thánh thì Khổng tử lại dạy rằng: 克己復礼為仁,一曰克己復礼,天下归仁焉. “Khắc kỷ phục lễ vi nhân, nhất nhật khắc kỷ phục lễ, thiên hạ quy nhân yên” (Khép mình vào lễ tức là trở lại với điều nhân, 1 ngày khép mình trở về với điều lễ thì thiên hạ quay vè với đức nhân). Nhan Uyên nói: “Xin hỏi về điều mục.” Đức Khổng nói 子曰:非礼勿视,非礼勿听 ,非礼勿言、非礼 勿动. “Tử viết: phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”, nghĩa là chẳng hợp khuôn phép chớ nhìn, chẳng hợp khuôn phép chớ nghe, chẳng hợp khuôn phép chớ nói, chẳng hợp khuôn phép chớ hành động.” (Luận Ngữ: Nhan Uyên 1). Nhân và lễ phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhân là nội dung, lễ là hình thức của nhân. Để xây dựng được mối quan hệ của nhân và lễ thì cần phải có trí tuệ. Khổng tử coi trí tuệ là điều kiện tất yếu để đạt đến đức nhân. Ông nói: “ Nếu ko có trí tuệ thì làm sao đạt được đức nhân”. Tức là phải dùng trí để đi nhận thức thiện ác chính tà, như thế mới gọi là nhân chân chính.

Làm điều Nhân là: khắc chế những tật xấu, thói hư của mình, đánh đổ những dục vọng riêng tư của mình. “Khắc kỷ” còn có nghĩa là chinh phục lấy mình; đó là tìm lại bản tính thuần nhiên mà Trời đã trao cho con người vào thuở ban sơ, không buông thả mình theo những nhu cầu tầm thường thế tục, không thượng tôn vật chất mà đánh mất Thiên mệnh.

Song song với việc khắc chế, đánh đổ, chinh phục, chính mình lại trở về với những khuôn phép tốt đẹp (phục lễ) của các thánh hiền xưa để lại mà cha mẹ, họ hàng, thầy giáo… đã dạy bảo mình. “Phục lễ” ở đây không phải là tuân theo những hình thức lễ nghi gò bó do xã hội áp đặt một cách nhân tạo. Lễ theo nghĩa cao cả là những tiết điệu uyên nguyên tốt đẹp làm nên sinh mệnh con người lý tưởng. Có tuân theo những tiết điệu uyên nguyên tốt đẹp thì con người mới có thể phát triển “Minh đức” (năng lực sáng láng) sẵn có của mình. Thực hiện đức Nhân ở mức độ này là đem con người ra khỏi sự lệ thuộc vào thế tục, cho con người được thở bầu khí tự do siêu nhiên thanh thoát. Như vậy, làm điều Nhân là hoàn thiện chính mình, khiến cho mình trở nên một bậc thánh hiền.

Có nhân mới thể biết lễ nhạc Đức Khổng cho rằng Lễ lấy đức Nhân làm nền tảng. Ngài nói: 人而不仁,如礼何?Nhân nhi bất nhân, như lễ hà? – Người không có đức nhân thì đối với lễ không có ích gì hết (Luận Ngữ: Bát Dật 3). Chính vì đức Nhân là nền tảng cho mọi sinh hoạt tốt đẹp, do vậy nhân không ở đâu xa mà vốn tồn tại trong mỗi con người nếu ta muốn Nhân thì Nhân ắt đến lập tức. Trong ý nghĩa này, Đức Khổng nói: “Nhân viễn hồ tai? Ngã dục nhân, tư nhân chí hĩ – Đức Nhân có ở xa chăng? Ta muốn Nhân thì Nhân đến vậy” (Luận Ngữ: Thuật Nhi 29).  Nếu đức Nhân được thực thi,  “đức Khổng tử nói: người thật chuyên tâm làm nhân thì đâu có phạm tà ác (cầu chi ư nhân hĩ, vô ác giả)- Luận Ngữ, Lý Nhân, tiết 4.

Người Quân Tử được gọi là Quân tử cũng là dựa vào đức nhân mà có cho nên nói: 君子去仁,惡乎成名-( Quân tử khử nhân, ô hồ thành danh). Hễ làm một người quân tử, chỉ là y dựa vào nhân; nếu rời bỏ đức nhân còn gì mà thành cái danh quân tử được?. Vậy đức nhân được thể hiện như thế nào, Ông Phàn Trì hỏi về đức Nhân. Đức Khổng tử đáp rằng: “Khi ở nhà mình giữ khiêm cung; khi ra làm việc mình thi hành một cách kính cẩn; khi giao thiệp với người, mình giữ dạ trung thành. Dẫu có đi đến các đoàn rợ phương Đông và Phương Bắc, mình cũng chẳng bỏ ba nết Cung, Kính, Trung ấy” (Luận ngữ, Tử Lộ, tiết 19).

Đức nhân còn được thể hiện bằng 5 đức khác: Cung – khoan – tín – mẫn – huệ.

Có nghĩa là: Cung kính thì sẽ không bị người khác khinh nhầm. Khoan dung thì sẽ được mọi người quý. Thành tín thì được mọi người tin. Mẫn là trí tuệ tháo vát thì sẽ thành công. Ban ân huệ thì đủ để sai khiên người khác. Đây là sự vận dụng của đức nhân, đạt được như vậy thì người gần sẽ được vui vẻ, người xa sẽ quy tụ với mình. Tư tưởng yêu người của Nho giáo một mặt đã nêu lên một trong những yếu tố giá trị nền tảng nhất, một mặt khác, nó cũng biểu hiện một tinh thần thực tiễn có thể ảnh hưởng tích cực đến việc xây dựng một xã hội ổn định, trật tự, có đạo đức, đó chính là việc đặt toàn bộ tâm trí vào “thi hành ơn huệ rộng rãi cho nhân dân và cứu vớt nâng đỡ mọi người” (bác thi ư dân nhi năng tề chi), vui với niềm vui của nhân dân, lo âu nỗi lo của nhân dân. Xét về mặt xã hội, mục đích của nhân nghĩa là để mang lại sự hòa hợp trong các mối quan hệ. Khổng Tử chú trọng tìm kiếm sự hòa hợp phổ biến giữa con người với chính bản thân mình, giữa cá nhân với người khác, giữa con người với xã hội. Khổng Tử đã từng đưa ra một câu nói nổi tiếng: “Hòa hợp nhưng không hòa tan” (hòa nhi bất đồng), ông nói: “Người quân tử hòa hợp nhưng không hòa tan, kẻ tiểu nhân hòa tan nhưng không hòa hợp” (Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa).

Nhân” – đức nhân của Nho giáo với ý nghĩa được người xưa quan niệm với một chiều kích cao rộng, có tầm mức từ thấp lên cao, từ gần ra xa. Tuần tự phát triển đức Nhân, người ta có thể từ bỏ con người tiểu nhân tiến lên bậc quân tử, thánh hiền. Đức Nhân có thể khiến cho gia đình an vui, xã hội ổn định và nhân loại thái hòa. Với nghĩa phổ thông: “Nhân là yêu người” thì người tầm thường ít học nhất cũng có thể thực hành được; nhưng đạt đến mức cao cả, thì đến Đức Khổng là bậc thầy trong Nho Giáo cũng chưa hiện thực nổi. Tuy nhiên, Kinh Dịch của Nho Giáo có nói tới “Thiên hựu” (ơn Trời). Nhờ Thiên hựu và sự quyết tâm, nhiệt thành của những con người thiện chí, đức Nhân có thể thành tựu trong cõi đời. Có thể nói Nhân là quan niệm chủ chốt của Nho giáo, được nhắc tới nhểu nhất. “Ta nên biết rằng cái học của Khổng Tử chủ ở đạo Nhân. Nhân là cái thể yên lặng, rất dễ cảm, dễ ứng, mà bao giờ cũng có tình cảm rất hậu, đối với sự vật gì cũng có lòng cảm xúc, và hành động lúc nào cũng trúng tiết và hợp thiên lý. Người có nhân thì có trực giác rất mẫn nhuệ, cái gì thoáng qua cũng trông thấy rõ ràng, hiểu biết ngay được mọi ý nghĩa tinh vi và suốt đến cái công lý chung cả toàn thể, không phải từ từ lần theo từng mối một, mới thấu tới cái chân lý. Người không có nhân thì trực giác mờ tối, trông cái gì cũng không thấy rõ ngay được, cho nên mới phải dùng lý trí mà suy tính những điều tư lợi”[7].

Chương 2: Phật Giáo Với Học Thuyết “Từ Bi”.

2.1. Sự Ra Đời Phật Giáo.

Phật giáo là một tôn giáo lớn của thế giới, được ra đời tại một nền văn minh của sông Hằng, với một hệ thống giáo lý đầy đủ và đồ sộ, bởi một vị thầy vĩ đại đó là Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy. Khoảng thế kỷ VI TCN, Ấn độ cổ đại đã có rất nhiều các trường phái triết học khác nhau. Khi ấy, một tư tưởng mới được đề sướng bởi Sa môn Gotama (Thích Ca mâu Ni) đó là giáo lý về Từ Bi- Bình đẳng, Nhân duyên, Vô Ngã, Tứ đế, Giác ngộ, Giải thoát…phủ nhận Phạm thiên đấng sáng tạo. Khổ đau hay hạnh phúc của con người không ngoài ai khác, mình là chủ nhân của tạo tác, cũng là người thừa hưởng chứ không phải do một đấng Phạm thiên hay thần linh nào gây nên. Trải qua nhiều thế kỷ với những biến đổi thăng trầm. dù bị chia rẽ ra thành nhiều tông phái nhưng Phật giáo vẫn giữ vững tinh thần chủ đạo của mình: Từ, Bi, Hỷ, Xả, vô ngã, vị tha..v.v. có lẽ vì thế mà Phật giáo luôn có chỗ đứng trong cộng đồng và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau. đạo Phật đã được truyềền khắp Ấn độ rồi lan ra nhiều nước trên thế giới.

Người sáng lập là Thái  tử Siddharth (Tất Đạt Đa, họ Cồ Đàm), con vua Suddhodana (Tịnh Phạn) nước Sakya (Ca Tỳ Na Vệ) ở phía nam dãy Hymalaya, vùng đất bao gồm một phần miền Nam nước Nepal và một phần của Ấn Độ ngày nay. Thái tử Siddharth văn võ toàn tài, lớn nên lại có nhiều những suy tư về Khổ – và làm sao để chúng sinh khỏi khổ. Năm 19 tuổi, Ngài bỏ cung vàng điện ngọc, 5 năm đi tầm sư học đạo, với tất cả các vị thầy lỗi lạc đương thời nhưng không thỏa trí, tiếp tục hành trình tìm chân lý với 6 năm tu khổ hạnh nhưng cũng vô ích. Cuối cùng, Ngài từ bỏ những lối tu ấy tới cội Bồ đề tư duy thiền định. “Đức Thích tôn với bản hoài đại bi, đại trí, nên suốt bốn mươi chín ngày, Ngài đoan tọa dưới gốc cây bằng một tinh thần tinh tấn dũng mãnh, với ý chí khắc phục nội ma ngoại chướng, bống nhiên vào ngày mùng tám tháng hai, vừa lúc sao mai ló dạng Ngài thấu ngộ tất cả các pháp không một pháp nào không do duyên khởi. sự rốt ráo của tất cả các pháp duyên khởi ấy là đạo lý vô ngã….. Khuếch nhiên đại ngộ, thành chính đẳng chính giác, vì vậy ngài tự xưng là vô thượng Phật đà (Buddha), và chúng đệ tử quy y Phật gọi ngài là Thế tôn, là Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni)”[8].

Nội dung cơ bản của tư tưởng Phật giáo được đức Phật thuyết giảng trong tam tạng Kinh điển (Kinh tạng- Luật tạng – Luận Tạng). là những giáo lý về Tứ Đế- Bát Chính Đạo – Thập Nhị Nhân Duyên- Tam Vô Lậu học- Ngũ uẩn..v..v.). Triết học Phật giáo đóng góp cho nền triết học nói chung và triết học phương Đông nói riêng, nó là một  nền triết học – tôn giáo có hệ thống, nhằm giải quyết những vấn đề của nhân sinh đó là khổ và con đường thoát khổ. Nếu tạm mượn những hệ thống phạm trù của triết học phương Tây để đối chiếu thì triết học Phật giáo có đầy đủ hệ thống bản thể luận, nhân sinh luận, nhận thức luận. Mỗi yếu tố chứa đựng những nội dung và chức năng riêng biệt là tiền đề và hệ quả của nhau.

Bản thể luận: bao gồm các giáo lý về Duyên khởi, Tính Không, Vô thường, Vô ngã, Sinh- Trụ-Dị-Diệt…

Nhận thức luận: bao gồm những giáo lý; Trung đạo, Duy thức, Nhân minh học, Nội quán…

Nhân sinh luận: là những giáo lý về Sinh – Lão – Tệnh – tử,  Khổ,  Nghiệp báo,  niết bàn, Luân hồi, Từ bi, Bát chính đạo, Thập giới, Ngũ giới…

Phật giáo là một tôn giáo với những “tư tưởng về Từ bi- về hòa bình hòa hợp đã được nhiều nhà khoa học và cộng đồng nhân loại tán dương và chính vì thế mà ngày 28.11.1999, tại phiên họp thứ 54, Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết A/54/235 công nhận ngày trăng tròn tháng 5 là Đại lễ VESAK kỷ niệm ngày đản sinh, thành đạo và nhập niết bàn (Lễ tam hợp) của đức Thích Ca, chính thức công nhận Đại lễ VESAK là một lễ hội văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc, tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết hữu nghị của đức Phật”[9]. Giáo lý nhà Phật rất sâu rộng nhưng không ngoài: Từ Bi – Trí Tuệ. Từ bi là nền tảng phương châm sống của Phật giáo, Trí tuệ là sự nghiệp trong Phật giáo (Duy tuệ thị nghiệp).  Đức Phật cũng đã dạy rằng: “Như Lai ra đời vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho đời, vì an lạc cho chư Thiên và loài người” (Trường Bộ kinh II).

2.2. Phật Giáo Với Học Thuyết “Từ Bi”.

Từ Bi là căn bản của Phật giáo trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh chép: “Tâm của chư Phật là tâm đại từ bi” (Chư Phật tâm giả, đại từ bi thị 诸佛心者大慈悲是). Đại Trí Độ Luận giải thích thêm: “Hết thảy những điều trong Phật pháp, từ bi là quan trọng nhất” (Nhất thiết chư Phật pháp trung từ bi vi đại 一切诸佛法中慈悲为大) . Như vậy chúng ta có thể thấy “Từ bi là gốc rễ của đạo Phật” (Từ bi thị Phật đạo chi căn bản 慈悲是佛道之根本).

Từ Bi” theo từ điển Phật Quang giải thích; “Từ” phạn ngữ Maitrya, “Bi” phạn ngữ là Karuṇa. Từ ái chúng sinh ban cho họ những niềm vui nên gọi là Từ, đồng cảm với nỗi khổ của chúng sinh, trừ bỏ những nỗi khổ ấy cho họ nên gọi là Bi. Như vậy, Định nghĩa theo danh từ nhà Phật, Từ nghĩa là thương yêu, là làm vui cho người và vật; Bi là thương xót người hay vật, khi thấy họ đau khổ, gặp hoạn nạn, và cố cứu họ ra khỏi hoàn cảnh ấy. Từ thuộc phạm vi tích cực (làm thêm vui); Bi thuộc phạm vi tiêu cực (trừ cái khổ) –  Phật dạy: “Từ năng dữ nhứt thiết chúng sinh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ”. Nghĩa là;Từ là cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ cái khổ cho tất cả mọi loài. Diệt khổ và cho vui đó là tất cả nguyện vọng và hành động lợi tha, cứu đời của người có lòng từ bi. Thế nên, từ bi không phải là thụ động, là trốn đời hay nhu nhược. Cái khổ và cái vui nói ở đây không chỉ là khổ và vui vật chất mà còn cả khổ và vui tinh thần[10]. Như người mẹ thương con, muốn làm cho con được vui vẻ sung sướng khi bình thường, là Từ. Khi đứa con đau đớn về tinh thàn hay vật chất, thì người mẹ thiết tha thương xót, chăm sóc, cứu chữa cho nó thoát khỏi cơn đau khổ gọi là Bi. Nói một cách đơn giản là Từ là ban vui, Bi là cứu khổ.

“Từ bi” là “Từ” và “Bi”, là hai đức tính (tinh thần) cơ bản trong bốn đức tính mà Phật giáo gọi là “Tứ vô lượng” (Caturapramana) hay còn gọi là “Tứ vô lượng tâm” 四无量心 (Từ – Bi – Hỷ- Xả). Theo Câu Xá Luận, quyển 29, “Vô lượng” 无量 nói về đối tượng vô lượng, bao quát mọi chúng sinh, không hạn chế một ai cả (vô lượng chúng sinh无量众生) và hiệu quả vô lượng, lợi ích đem lại cho chủ thể cũng như khách thể đạo đức là vô cùng lớn lao (vô lượng phúc quả无量福果).

Bốn đức tính đó gọi là “từ” 慈, (Skt: Maittri”, Pali: “Metta”; “bi” 悲 (Skt, Pali: Karuna); “hỷ” 喜 (Skt, Pali: Mudita); “xả” 舍 (Skt: Upeksa, Pali: Upekkha). Kinh Tập giải thích: “Từ” là lòng mong muốn đem lại lợi ích và an lạc cho người khác. “Bi” là hy vọng nhằm loại trừ những khổ đau không có lợi cho người khác hoặc có hại cho người khác” (Từ thị lợi ích hòa an lạc tha nhân đích tâm nguyện. Bi thị trừ khử bất lợi tha nhân hoặc hữu hại tha nhân chi khổ chi hy vọng 慈是利益和安乐他人的心愿,悲是除去不利他人或者害他人之苦之希望).

Phật học Đại từ điển định nghĩa “Tứ vô lượng” là “bốn đức tính của Phật Bồ tát gồm từ, bi, hỷ, xả. Tâm niệm đem lại niềm vui cho người khác gọi là “từ”, tâm niệm làm cho người khác bớt khổ đau gọi là “bi”, vui mừng vì chúng sinh được an lạc, tránh khổ đau gọi là “hỷ”, tâm niệm đối với chúng sinh không tính toán thân, sơ, đối xử với mọi người bình đẳng như nhau gọi là “xả” (Phật Bồ tát từ, bi, hỷ, xả chi tứ đức dã. Dữ lạc chi tâm vi từ, bạt khổ chi tâm vi bi, hỷ chúng sinh ly khổ hoạch lạc chi tâm viết hỷ, ư nhất thiết chúng sinh xả hận thân chi niệm nhi bình đẳng nhất như viết xả 佛菩萨慈悲喜舍之四德也,与乐之心为慈,拔苦之心为悲,喜众生离苦获乐之心曰喜,于一切众生舍恨亲之念而平等一如曰舍).

Thông thường, “từ” vẫn được hiểu là “đem lại niềm vui” (dữ lạc 与乐), “bi” có nghĩa là “giảm bớt khổ đau” (bạt khổ 拔苦). Nhưng không phải ai cũng hiểu như vậy. Chẳng hạn Vãng sinh luận chú lại cho rằng: “Giảm bớt khổ đau cho người khác gọi là “từ”, đem lại niềm vui cho người khác gọi là “bi”” (Bạt khổ viết từ, dữ lạc viết bi 拔苦曰慈,与乐曰悲). Niết bàn kinh, quyển 14, cũng cùng kiến giải: “Giảm bớt những gì không có ích lợi cho chúng sinh gọi là “đại từ”, đem lại niềm vui vô hạn cho chúng sinh gọi là “đại bi” (Vi chư chúng sinh trừ vô lợi ích thị danh đại từ, dục dữ chúng sinh vô lượng lợi lạc thị viết đại bi 为诸众生除无利益是名大慈,欲与众生无量利乐是名大悲).

Như vậy là “từ” được hiểu là “bi” và “bi” lại được hiểu là “từ”. Cái nọ thành cái kia và cái kia thành cái nọ. Nhưng thực ra “từ” và “bi” cũng là hai mặt của một vấn đề, cho nên gọi là “đại từ”, “đại bi” hay “đại từ bi” cũng thế mà thôi. Thậm chí chỉ cần một chữ “từ” cũng đủ rồi, bởi vì “từ là mẹ của mọi đức tính” (Từ vi nhất thiết đức chi mẫu – Nhân Vương kinh ( 慈为一切德之母,仁王经). Metta sutta có thể gọi là Từ kinh hay Từ bi kinh cũng chẳng có gì khác nhau. Cũng như “ngũ thường” của Nho giáo bao gồm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” nhưng gọn lại chỉ cần một chữ “Nhân” là đủ.

“Từ bi” trong Phật giáo không chỉ là một tư tưởng hành động, mà nó còn là một Phép tu “Quán Từ bi” để huân tập ở trong tâm thức, là tư tưởng cốt yếu đặc biệt trong tinh thần Bồ tát đạo thực hành trên con đường đi đến Phật quả. Nếu chỉ có tâm Từ bi thôi thì vẫn chưa đủ, mà còn cần có hành động Từ bi. Hay nói cách khác, người học Phật phải từ trong thực tế hành động, để làm phong phú cho nội dung của tâm từ bi, mà chẳng phải chỉ là suy nghĩ. Điều này gọi là hạnh lợi tha, đại cương là: Bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự (Tứ nhiếp pháp). “ Kinh Luận đều có nhất trí với nhau, cốt lõi về thực hành và quả vị của Đại thừa, không phải là gì khác, đó chính là từ bi. Tách rời khỏi từ bi thì không có Bồ-tát, cũng không có Phật. Cũng có thể khẳng định: nếu như không có từ bi, thì không có Phật pháp, vì Phật pháp phát huy trên cơ sở từ bi. Tôn chỉ của Đại thừa như vậy, nếu hành giả Thanh văn chuyên suy nghĩ về “tự lợi” thì sẽ không đồng ý với quan điểm này. Nhưng ba tạng Kinh Luật Luận mà hành giả Thanh văn cùng thừa nhận, thì đức Phật Thích Ca xác thật là như vậy”[11]. Từ Bi được hình thành từ nguồn gốc của tính Duyên khởi và tính bằng đẳng trong Duyên khởi, tức là phủ định tự ngã, hay nói cách khác là Vô Ngã.

Tóm lại, Từ bi là căn bản của Phật pháp, cũng có thể nói là tương đồng với nhân ái trong văn hoá phương Đông, và bác ái trong văn hoá Cơ-đốc. Tuy nhiên Phật pháp có khả năng đi thẳng thâm sâu vào nội hàm của từ bi, không bị ảnh hưởng mê vọng của thần sáng tạo, hay bị trói buộc trong sự hẹp hòi của một số người, mà thể hiện ra một cách hoàn thiện nhất và thâm sâu triệt để nhất. Căn cứ vào Phật pháp mà nói, từ bi là sự hiển hiện do khế hợp thích đáng với sự việc thực tế và chân lý.

Chương 3: Sự Giống và Khác Nhau Giữa  Học Thuyết “Nhân” của Nho giáo với học Thuyết “Từ Bi” Của Phật Giáo.

 3.1. Điểm Giống nhau

Từ Bi của Phật giáo được xây dựng trên tinh thần Duyên khởi, tức là Vô ngã. Khổ đau của chính mỗi cá nhân mình cũng tương đồng như những nỗi khổ niềm đau của bao người khác, đây chính là căn nguyên để phát khởi lòng từ bi. Điều này cũng như Nho gia gọi là Nhân. Cái mình không muốn thì người khác cũng đâu có muốn, Phật giáo với tinh thần “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính” ( Tất cả chúng sinh đều có Phật tính bình đẳng như nhau).

Nếu Như Các Mác nói “Con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”, mỗi cá nhân không thể tồn tại độc lập mà không có những quan hệ với cá nhân khác. Cũng tương tư như Nhân (仁) có ý nghĩa là hai người (二人) – nhiều người, mối quan hệ hợp lý của nhiều người tương hỗ qua lại cùng nhau tồn tại. Ở trong vấn đề tâm lý, tức là cảm giác đồng tình của mối quan hệ mật thiết giữa mình và người. Đồng tình hợp tác hài hoà, sinh sống hoạt bát, tức là nhân. Đức Phật thuyết pháp duyên khởi, đồng thời cũng chính là nói vô ngã. Bởi vì từ duyên mà khởi, nên không có thực thể độc lập tồn tại, không có tự ngã tuyệt đối. Phủ định tự ngã tuyệt đối, cũng chính là không có tha nhân tuyệt đối. Mối quan hệ tương đối của mình và người, tương quan mật thiết, do đó tính từ bi đồng tình khởi phát một cách tự nhiên.

Tu thân, là một quan điểm của Nho gia để hướng tới đạt được đức Nhân. “Về tu thân, Nho giáo có hàng loạt những điều răn dạy. Muốn tu thân phải giữ lòng mình ngay thẳng, ý mình thành thật (Chính tâm thành ý). Lại phải có trí thức chu đáo nghiên cứu sự vật (Trí tri cách vật)…tư tưởng không mờ ám (Tư vô tà)- Luận ngữ, lại phải gắng công, bền trí, sửa mình hàng ngày”[12]. Những điều tu thân trên con đường hoàn thiện mình đi tới Đức Nhân của Nho giáo, phần nào cũng có điểm tương đồng trong việc tu hành của Phật giáo; “Chính tâm thành ý- tư vô tà” tức cũng tương tự như “Chớ làm các điều ác – Giữ tâm ý thanh tịnh”, để đạt được hạnh Từ bi một cách toàn diện Phật giáo coi trọng cả Trí Tuệ, Từ bi thôi chưa đủ phải có trí tuệ thì thực hành từ bi mới đúng đắn hoàn toàn được, nếu không thì nhiều khi việc làm từ bi với tâm ý muốn tốt cho người thì tác dụng lại ngược lại. Điều này cũng như Nho giáo đòi hỏi phải Trí ti cách vật.

Nho gia nói: “Người có lòng nhân thì không có kẻ thù”. Người có khả năng chân thật thể nghiệm đến lòng nhân, mở rộng lòng nhân. Cũng như đức Phật từng dạy:

“Hận thù diệt hận thù

Đời này không thể có

Từ bi diệt hận thù

Là định luật ngàn thu”.

(Kinh Pháp cú 5, phẩm Song Yếu)

Như vậy lòng Nhân của Nho gia, đối với lòng Từ bi của Phật giáo chẳng phải cũng có những điểm tương đồng nhất định hay sao. Cũng đều hướng tới lòng vì người, sống một lối sống tốt đẹp, yêu thương. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những đặc điểm và tính chất khác nhau.

3.2. Điểm Khác Nhau

“Từ là cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ cho tất cả mọi loài. Chúng ta đã biết Phật dùng hai chữ chúng sinh là để chỉ cho tất cả mọi sinh vật. Vậy Từ là cho vui tất cả mọi sinh vật, chứ không phải riêng cho loài người. Tất cả mọi vật có sự sống đều được chung hưởng tình thương ấy. Còn Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ cho chúng sinh. Chúng ta nên để ý là trong câu định nghĩa chữ Hán, các kinh dùng chữ “bạt” nghĩa là nhổ tận gốc rễ. Vâng, nhổ tận gốc rễ của cái khổ chứ không phải chỉ thoa dịu cái quả khổ trong hiện tại, mà để mặc cho cái nhân gây ra khổ mãi về sau. Người có lòng Bi là vừa thoa dịu vết thương đau khổ trong hiện tại và vừa chữa cho khỏi nguyên nhân hay gây ra đau khổ, như người làm vườn, không phải chỉ cắt cho sạch cỏ trên mặt đất, mà còn đào sâu xuống dưới, nhổ cho hết gốc rễ của cỏ nữa.  Như thế thì Từ bi, về phương diện không gian, bao gồm tất cả mọi loài, còn về phương diện thời gian, bao gồm tất cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Còn bác ái thì chỉ chú trọng nhiều về loài người mà ít để ý đến sinh vật; và chỉ lo cứu khổ, cho vui trong hiện tại mà ít nghĩ đến cái quả trong tương lai”.[13]

Như vậy cho thấy rằng từ bi trong Phật giáo rộng lớn vô biên, lòng từ bi không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Đức Phật thuyết pháp về pháp môn tu tập quán từ bi. Đức Phật dạy: “Khi một Tỳ Kheo ngồi an trú trong Chánh Niệm, Tỳ Kheo ấy trải lòng từ mẫn thương yêu tất cả chúng sinh khắp các phương hướng, từ phương trước mặt, sau lưng, hai bên, trên và dưới. Tỳ Kheo ấy nguyện lòng yêu thương tất cả từ người quen biết cho đến chưa quen, từ loài người cho đến cầm thú, từ kẻ thân thiết đến người sơ bạc. Thậm chí vị Tỳ Kheo ấy yêu thương được cả những chúng sinh đã từng có oan trái hãm hại mình. Như vậy vị Tỳ Kheo ấy làm cho sung mãn, làm cho tràn đầy, làm cho vô hạn tâm từ bi đến vô biên vô lượng. Lòng từ bi của vị Tỳ Kheo ấy như là cỗ xe to lớn chuyên chở vàng bạc châu báu, như là căn cứ địa bảo vệ kinh thành trước quân thù, như là biển cả dung chứa các loài thuỷ tộc”. Như vậy lòng Từ bi trong quan điểm của Phật giáo về phương diện tư tưởng chúng sinh (Hữu tình – vô tình) là bình đẳng lại khác hoàn toàn với Nho giáo. Chữ Nhân của Nho gia, ở trong mối quan hệ giữa mình và người trong xã hội, xuất phát từ lợi ích an lạc chung của gia đình, nhân luân – từ cha con khuếch đại đến quân thần, từ anh em khuyếch đại đến bạn bè, vợ chồng làm căn nguyên của đạo đức. Từ điểm này mà hướng ngoại suy diễn, nên mới “từ người thân mà nhân từ với nhân dân, từ nhân từ với nhân dân mà ái thích muôn vật”; “mọi người như tay chân của mình, thân như một nhà”; “mọi người trong xã hội là đồng bào của tôi, vạn vật là bạn bè của tôi”. Tình thương thân thuộc của gia đình, bình đẳng nhất, thiết thực nhất, cũng là nhỏ hẹp

Đứng trên lập trường của giai cấp quý tộc thị tộc, Khổng Tử đã gắn cho học thuyết Nhân một nội dung giai cấp khá rõ nét. Luận điểm: “Người quân tử có khi phạm điều bất nhân, chứ chưa từng thấy kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân” quan điểm của Khổng Tử cho thấy ông không thừa nhận đức Nhân của quần chúng lao động. Trong suy nghĩ của ông, các đức đều có sẵn mầm mống và đầu mối như nhau trong tính trời, lòng người, nhưng chỉ kẻ quân tử biết mệnh trời nên mới có thể tự tu thân sửa mình giữ gìn tâm tính để có đạo cao, đức sáng. Trái lại, kẻ tiểu nhân vì không hiểu mệnh trời nên không biết tồn tâm dưỡng tính, đưa đến hậu quả hư cả tâm, mất cả tính; do vậy, họ không có đức. Điều đó có nghĩa, đức nhân chỉ là đức của người quân tử và triết lý tu thân sửa mình mà Khổng Tử đưa ra chỉ dành riêng cho giai cấp thống trị.

Từ bi của Phật giáo mang tính chất đại đồng rộng hơn Nhân của nho giáo rất nhều. Hơn nữa, Phật giáo với tư tưởng giải thoát – niết bàn nên lòng Từ bi không chỉ là một pháp tu để lợi mình lợi người mà nó còn là một trong lộ trình để đạt tới giải thoát tối hậu là thoát khỏi luân hồi sinh tử. Nhân của Nho gia xuất phát từ thực tế xã hội đương thời của Trung quốc cổ đại, thì Nhân là một tư tưởng rất Nhân văn, nhân bản nhưng mục đích tối hậu là để đạt tới ổn định xã hội, đến Mạnh Tử thì nên nên “Nhân nghĩa” lên là để đi tới “Nhân chính” thi hành trị quốc.

3. Kết luận

Phương Đông với những nền văn minh lớn của Sông Hằng, Sông Ấn, Sông Trướng giang, Hoàng hà… là nơi đã sinh ra rất nhiêu tư tưởng Triết học, Tôn giáo lớn. Phật giáo và Nho giáo là những kho tàng Triết học vĩ đại có ảnh hưởng từ rất sớm đến các nước như; Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc… sự ảnh hưởng của nó đến tận ngày nay vẫn còn những giá trị thiết thực và cho tới mai sau.

Với học thuyết Từ bi của Phật giáo, học thuyết Nhân của Nho giáo, tuy có những sự khác biệt, nhưng cũng có những điểm chung nhất định. Phật giáo chủ trương giải thoát con người khỏi nỗi Khổ niềm đau, Nho gia với mục đích xây dựng một xã hội an định bằng Nhân, Đức, Lễ … bằng giường mối cương thường đạo lý. Đều có ý nghĩa nhất định trong bối cảnh văn hóa xã hội hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ về mọi mặt của khoa học kỹ thuật đã giúp nhân loại đạt được nhiều thành tựu lớn về sản xuất vật chất. Nhưng bên cạnh đó thì dường như giá trị đạo đức dần dần đáng báo động về sự tha hóa. Chính vì thế, chắc hẳn mọi người sẽ nhất trí với lời phát biểu rằng; đạo đức là giá trị cốt lõi và có một vị trí hết sức quan trọng cho sự tồn tại, phát triển của cuộc sống con người ở mọi thời đại. Trước đây trải qua thời gian dài, có người đã cho rằng tôn giáo (Phật giáo, Nho giáo…) như là “tàn dư” của xã hội cũ, và xem như đối lập với khoa học kỹ thuật, đó là kết quả sai lầm trong nhận thức của một vài người hay một thời kì.

Nếu theo như Arittot cho rằng: “hạnh phúc đồng nghĩa với đạo đức: thì có thể thấy trong Phật giáo hay bất cứ tôn gáo nào để đạt tới Chân – Thiện – Mỹ và hạnh phúc thì đạo đức cần phải được thực thi.

“Nền kinh tế thị trường đang phát huy mạnh mẽ tính năng động tích cực của nó, góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông từng bước cải thiện đời sống; đồng thời nó cũng đang hàng ngày hàng giờ, reo rắc thói hư tật xấu mà mặt trái của nó gây ra. Tệ tham nhũng, đầu cơ, buôn lậu, cùng các tệ nạn xa hội khác, mặc dù bị lên án, trừng phạt, nhiều biện pháp được tiến hành, vẫn không giảm bớt… nhằm trước hết làm cho mỗi người nâng cao trách nghiệm công dân, trau dồi đạo đức, giữ gìn lành mạnh và an toàn xã hội, mà trong việc này thì chúng ta có thể tìm thấy và khai thác nhiều ở Nho giáo những nhân tố thích hợp”[14]

Phật giáo với tinh thần Từ bi – Trí tuệ, giúp con người loại trừ khổ đau (phiền não) đạt đến hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Phật giáo cũng chủ trương là giúp con người đạt được hạnh phúc tối hậu đó là Niết bàn, sự giải thoát hoàn toàn. Để đạt được những quả vị ấy thì những Phật tử phải học tập và hạnh trì giáo lý không ngoài (Kinh – Luật – Luận) và tổng gồm đó là ba yếu tố Giới – Định – Tuệ (tam vô lậu học), được xây dựng trên lòng Từ, bởi Tâm từ bi là căn bản của Phật pháp, là tâm tuỷ của chư Phật Bồ-tát. Nhất cử nhất động đều biểu hiện từ bi, tất cả các hành vi đều xuất phát từ động lực của từ bi.

Đạo Tâm

4. Tài Liệu Tham Khảo

  1. Nguyễn Tài Đông, Nến Tảng Nho Giáo Của Tư Tưởng Xã Hội Hài Hòa. Kỷ yếu hội thảo về vấn đề sở hữu và phát triển bền vững ở Việt Nam và Trung Quốc trong những năm đầu thế kỷ XXI,
  2. Vũ Khiêu (Chủ biên), Nho giáo và Đạo Đức, Nxb Khoa Học Xã Hội 1995
  3. Sào Nam- Pham Bội Châu, Khổng Học Đăng, Nxb Văn Hóa Thông Tin, 1998.
  4. Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, Nxb Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh, 2012.
  5. Trần Trọng Kim, Nho Giáo, Nxb
  6. Lê Minh Tuấn, Đức Nhân Trong Nho Giáo, Nội San Tần Học- Mục Vụ – Tu Đức Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016.
  7. 儒家的仁学和佛教的佛性. Nguồn: http://elearning.thanhsiang.org/node/2346
  8. Trần Thuận, Phật Giáo Việt Nam – Góc Nhìn Lịch Sử Và Văn Hóa, Nxb TP Hồ CHí Minh, 2019.
  9. Pháp Sư Thánh Nghiêm (Thích Tâm Trí dịch), Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Nxb Phương Đông, 2008.
  10. Ht Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, Nxb Tôn giáo, 2006.
  11. Website: https://thuvienhoasen.org/

[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, NXB Phương Đông 2012, tr 15

[2] Trung Tâm Nghiên Cứu Tôn Giáo Đương Đại, Tôn Giáo và Văn Hóa Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thực tiễn – Kỷ Yếu Tọa Đàm Khoa Học Quốc Tế, NXB Tôn Giáo 2014, tr 557

[3] . Vũ Khiêu (Chủ biên), Nho giáo và Đạo Đức, Nxb Khoa Học Xã Hội 1995, tr 8.

[4] . Nguyễn Hiến Lê, Khổng Tử, Nxb Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh, 2012, tr 58.

[5] . Vũ Khiêu (Chủ Biên), Nho Giáo Và Đạo Đức, Nxb Khoa Học Xã Hội 1995, tr 29

[6] Thiểu Chửu, Hán Việt Tự Điển, Nxb Tôn giáo, 2017, tr 34.

[7] . Trần Trọng Kim, Nho giáo, Nxb , tr 19.

[8]. Pháp Sư Thánh Nghiêm (Thích Tâm Trí dịch), Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Nxb Phương Đông, 2008, tr60.

[9] . Trần Thuận, Phật Giáo Việt Nam – Góc Nhìn Lịch Sử Và Văn Hóa, Nxb TP Hồ CHí Minh, 2019, tr17.

[10] . HT Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, Khóa IV, bài 3.

[11] .  Quán Như dịch, Trích trong tác phẩm “Ba điều cần thiết cho người học Phật” của Hòa thượng Ấn Thuận. Nguồn: Thư Viện Hoa Sen.

[12] . Vũ Khiêu (Chủ biên), Nho giáo và Đạo Đức, Nxb Khoa Học Xã Hội 1995, tr 14

[13] . HT Thích Thiê Hoa, Phật Học Phổ Thông, Khóa IV, bài 3.

[14] . . Vũ Khiêu (Chủ biên), Nho giáo và Đạo Đức, Nxb Khoa Học Xã Hội 1995, tr 14