Hệ thống của Thức và nhận định về Như Lai Tạng áp dụng vào tu học
MỤC LỤC
- DẪN NHẬP. 1
- NỘI DUNG.. 2
- Khái quát về Thành Duy Thức Luận. 2
- Nghĩa chữ “Thành Duy Thức Luận”. 2
- Lược sử về Duy Thức Học. 3
- Hệ thống của Thức. 4
III. Hệ Thống Tam Năng Biến. 8
- Sơ năng biến : 8
- Nhị năng biến : 9
- Tam năng biến : 10
- Nhận định về Như Lai Tạng qua Duy Thức Học. 12
- Quá Trình Tu Tập Như Lai Tạng Theo Duy Thức Học 15
- Nhận thức Tam vô tánh. 15
- Ngũ trùng thức quán. 16
- Ngũ vị tu tập. 17
- Bài học kinh nghiệm cho hành giả qua nghiên cứu Duy Thức Học. 19
- NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN.. 21
A. DẪN NHẬP
“Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó”[1]
Hiện nay, thành tựu vượt bậc của khoa học cùng với tư tưởng tiến hóa của nhân loại đòi hỏi phải thẩm định lại nhiều tư tưởng triết học xưa và nay. Đương nhiên, những tư tưởng mang tính phi lý, lạc hậu, phản khoa học đều phải bị đào thải. Thế nhưng tòa nhà cổ kính hơn hai mươi lăm thế kỷ của Chân lý Phật giáo vẫn trường tồn cùng năm tháng, điều này chứng tỏ Phật giáo đã toát ra một sức sống mãnh liệt bắt nguồn từ một giá trị tinh thần phong phú, tinh thần ấy thể hiện Chân lý và Giáo pháp của Chân lý Phật giáo. Khẳng định rằng, Đạo Phật là một trong những Tôn giáo đi vào cuộc đời với một nếp sống lành mạnh, là một hệ thống giáo lý hoàn chỉnh nhất mang tính nhân bản, giáo dục con người trở thành hữu ích cho xã hội.
Duy Thức Học là một nghành học rất sâu-sắc, uẩn-súc, và rất danh-tiếng trong đạo Phật. Đó là tâm-lý-học của Phật-Pháp, giúp chúng-sinh, để dể bề tu-tiến. Duy-thức thuộc về Pháp-Tướng, tức là phân-tích, lý-luận, chia phần, đoạn, phân-minh như khoa-học ngày nay. Phần lớn là bản dịch bộ “Thành Duy Thức Luận” của Tam-Tạng Pháp-Sư Huyền-Trang, đời Đường, bên Trung-Hoa. Bộ này được coi là bộ sách đầy đủ nhất về Duy Thức từ xưa đến nay.
Học giả xin chọn đề tài “Hệ thống của thức và nhận định về Như Lai Tạng áp dụng cho tu học” để làm bài thi học kì VII năm thứ tư của mình.
Đề tài nghiên cứu viết theo phương pháp tóm tắt, nhận định, phân tích, chứng minh để từ đó thấy được ý nghĩa và giá trị Chánh pháp thông qua đề tài nghiên cứu hầu ứng dụng tu tập để đạt được giải thoát.
Với lòng khát ngưỡng giáo pháp, dù hết sức cố gắng nhưng khả năng còn nhiều giới hạn, nên sự nghiên cứu còn rất nhiều thiếu sót, con kính trên Giáo Thọ Sư tận tình chỉ dạy.
B. NỘI DUNG
Mục lục
I. Khái quát về Thành Duy Thức Luận
Như người học giả đã biết, Đức Phật là người đầu tiên trình bày lý Duy Thức trong các Kinh. Sau khi Phật nhập diệt, các bộ phái Phật giáo hình thành với lý do để phát huy chánh Pháp của Ngài đến với mọi người. Sau khi kết tập Kinh điển không tránh khỏi những quan điểm, những tư tưởng dị biệt, nên đưa đến kết quả phân chia bộ phái. Tại Ấn Độ chia thành hai phái : Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ, sau này hình thành hai nguồn tư tưởng Đại thừa và Tiểu thừa Phật giáo. Từ hai phái chính này lần lần chia nhiều bộ phái.
Từ Ấn Ðộ ngài mang về Trung Hoa 520 hòm gồm 657 bộ kinh Phật bằng Phạn văn. Từ khi về nước cho đến khi gác bút quy Tây, suốt 19 năm ròng âm thầm chuyên dịch, ngài đã dịch được 75 bộ gồm 1335 cuốn, trong đó chủ yếu là kinh Ðại Bát Nhã 600 cuốn, Ðại Tỳ bà sa luận 200 cuốn, Du già Sư Ðịa Luận 100 cuốn, Cu xá Luận 30 cuốn, Hiển Dương Thánh Giáo luận 20 cuốn, Thành Duy Thức Luận 10 cuốn v.v…
Duy Thức Luận của Đại Thừa
Thắng Pháp Luận của Thượng Tọa Bộ
Câu Xá Luận của Nhất Thiết Hữu Bộ
1. Nghĩa chữ “Thành Duy Thức Luận”
Duy Thức là duy cái biết, do cái biết, hoặc y nơi cái biết (bỉ y thức sở biết)
Muôn sự muôn vật không tự hiện hữu, chỉ hiện hữu khi đủ duyên, chỉ hiện hữu giữa mối quan hệ, lớp này lớp khác trùng trùng vô tận, một làm duyên cho tất cả, tất cả duy một, tất cả làm duyên cho một, một duy tất cả. Do cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh, cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt. Như thế là duyên khởi, y tha khởi. Trong đó nếu nói duy thì cái nào cũng duy được hết, duy sắc, duy hương, duy vô minh, duy căn, duy trần v.v… như Cổ đức nói: “Nhất sắc nhất hương, vô phi trung đạo”. Ngài Thiên Thai Trí Giả nói: “Tùy niêm nhất pháp, giai thị pháp giới”. (Bất cứ đưa ra một pháp nào, pháp đó đều là pháp giới muôn pháp).
“Thức” là một trong hết thảy pháp, nhưng thức có năng lực đặc biệt biết được cái khác và tự biết được mình, nó là chủ lực ở ngay trong mỗi mỗi chúng sanh. Chính cái biết này làm cho các pháp trong đồng nhất tính duyên khởi, vô danh vô tướng, vô thỉ vô chung, vô trung vô biên ( không trong không ngoài) nổi lên thiên hình vạn trạng, rồi mê muội chạy theo giả tướng thiên hình vạn trạng đó mà đắm trước, tạo nghiệp, buộc ràng theo nó, gây nên khổ đau.
“Duy” có nghĩa là giản biệt, ngăn không có ngoại cảnh; “Thức” có nghĩa là liễu giải, biểu thị có nội tâm”.[2]
2. Lược sử về Duy Thức Học
Khoảng 900 năm sau Phật có hai nhà học Phật lỗi-lạc là Vô-Trước và Thế-Thân lập ra Duy-thức học, thành một trong hai hệ-thống lớn của đại-thừa Phật-giáo ở Ấn-độ. Cho đến thế kỷ thứ 6, trong khoảng 200 năm, có nhiều luận-sư lỗi-lạc xuất-hiện: ngài Thân-Thắng, Hỏa-Biện, Đức-Tuệ, Trần-Na, An-Tuệ, Nan-Đà, Tịnh-Nguyệt, Hộ-pháp, Giới-Hiền, Thắng-Hữu, Tối-thắng-Tử, Trí-Nguyệt. Đó là các bậc đại-luận-sư về duy-thức.
- Phần trước-tác của ngài Di-Lặc :
- “Du-già sư-địa-luận” (100 quyển). Ngài Huyền-Trang dịch.
- “Đại-thừa trang-nghiêm kinh luận”.
- “Thập địa kinh luận”.
- “Trung-biên phân-biệt luận”
- Phần trước-tác của ngài Vô-Trước :
- “Hiển-dương thánh-giáo luận” (20 quyển). Ngài Huyền-Trang-dịch.
- “Nhiếp đại-thừa-luận” (3 quyển). Ngài Chân-Đế dịch.
- “Đại-thừa A-tỳ-đạt-ma tạp luận” (7 quyển). Ngài Huyền-Trang dịch.
- “Kim-cương bát-nhã ba-la-mật-đa kinh luận” (3 quyển).
- “Thuận-trung-luận” (2 quyển).
Các bộ “Du-già sư địa-luận”, “Hiển-dương thánh-giáo-luận”, “nhiếp-đại-thừa-luận” nghiên-cứu về duy-thức và nêu thuyết “A-lại-da duyên-khởi”.
Ngài Thế-Thân (Vasubandhu) là em ngài Vô-Trước. Ngài viết rất nhiều sách. Đây là mấy bộ chính trong số những bộ đã được dịch sang chữ Hán :
- “Duy-thức tam-thập-luận tụng” 1 quyển, ngài Huyền-Trang dịch.
- “Duy-thức nhị-thập-luận” 1 quyển, ngài Huyền-Trang dịch.
- “Đại-thừa bách-pháp minh-môn-luận”, 1 quyển, ngài Huyền-Trang dịch.
Mấy quyển trên là căn-bản cho duy-thức-học.
II. Hệ thống của Thức
Theo Thượng Tọa Nhật Từ “ Duy Thức Học” đi từ nhận thức luận đến giải thoát luận, nhằm giải phóng các sai lầm của thức, giúp mọi người sống với trí tuệ. [3]
Thức là bản thể của Tâm, lìa ngoài sự biến hiện của thức thì không có một thực tại nào cả, nên gọi là Duy Thức. Mọi hiện tượng Tâm- Vật ở ngoài tâm của chính con người, đều do sự chủ quan và khách quan của tự thể 8 thức biểu hiện ra. Cho nên, Duy Thức là là một danh số phức hợp, chia rộng thì có 8 yếu tố ( nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt na thức và A-lại da thức), nhưng dựa vào khả năng biến chuyển thì cũng có thể chia thành 3 yếu tố, gọi là Tam năng biến ” Sơ năng biến ( A-lai da thức), Nhị năng biến ( Mạt-na thức), Tam năng biến ( tiền lục thức)
Tám yếu tố là :
- Nhãn thức: Cái biết của con mắt.Vì thức này nương nhãn căn khởi ra tác dụng phân biệt về sắc trần, nên gọi là nhãn thức.
- Nhĩ thức: Cái biết của lỗ tai. Vì thức này nương nhĩ căn khởi ra tác dụng phân biệt về trần, nên gọi nhĩ thức.
- Tỷ thức: Cái biết của mũi. Vì thức này nương tỷ căn khởi tác dụng phân biệt về hương trần, nên gọi là tỷ thức.
- Thiệt thức: Cái biết của lưỡi. Vì thức này nương thiệt căn khởi ra tác dụng phân biệt vị trần, nên gọi là thiệt thức.
- Thân thức: Cái biết của thân. Vì thức này nương thân căn khởi ra phân biệt xúc trần, nên gọi là thân thức[4].
- Ý thức: Theo Thế Thân Bồ Tát thì thức này nương ý căn (thức thứ 7) mà khởi tác dụng phân biệt pháp trần. Ý được nhận diện dưới hai hình thức :
- Độc đầu ý thức: Trường hợp ý thức hoạt động độc hành, không cộng tác với năm thức trước. Ví như hồi ức, khi tưởng tượng, mắt không nhìn thấy cảnh, tai không nghe tiếng,…nhưng hình ảnh củ vẫn hiện ra trong trí óc.
- Ngũ câu ý thức: Còn gọi là minh liễu thức, tức là tác dụng của ý thức khi có sự cộng tác của năm thức cảm giác. Nói một cách dễ hiểu thì Ngũ câu ý thức chỉ được phát hiện do sự tiếp xúc của cảm quan ( căn) và đối tượng (trần). Xác nhận sự thực hữu của một thế giới thực tại khách quan, độc lập với ý thức.
- Mạt- Na Thức: Về tên gọi, Mạt Na có nhiều cách gọi khác nhau như: Ý căn, thức căn thứ 7. Nói một cách nôm na, những lúc Ý thức bị gián đọan (ngủ mê, bất tỉnh nhân sự, “côma” , bị chụp thuốc mê v..v..).
Truyền Tống thức. Công năng của Mạt na thức là suy xét, so đo, chấp trước, phân biệt: phân biệt có “cái ta”, cái Tôi , nghĩa là bảo thủ cho “cái ngã, cái Tôi” của mình. Ngoài ra, thức này vừa có công năng truyền các điều mắt thấy, tai nghe, mũi ngữi v.v.( DTH gọi là “các pháp hiện hành” ) vào A lại da thức , vừa tống các chủng tử ở trong A lai da thức khởi ra hiện hành (đó là lý do tại sao những cảnh vật đã thấy từ hồi thơ ấu có thể “tái hiện “ lại trong trí khi ta hồi tưởng lại) .
Mạt-na là chuyển thức, một mặt chấp Tàng thức làm ngã, mặt khác nó lại làm nền tảng cho sự nhiễm và tịnh của sáu chuyển thức trước. Vì lẽ, sáu chuyển thức trước luôn luôn liên hệ chặt chẽ với sự hiện diện của Mạt-na và Mạt-na luôn tác động- lưu chuyển giữa chủng tử và hiện hành đến sáu chuyển thức. Do đó, nếu sự cuồng si của Mat-na càng lớn thì khả năn g sáng suốt của sáu chuyển thức càng nhỏ. Ngược lại Mạt-na được giải thoát chừng nào thì khả năng thanh tịnh, sáng suốt của sáu chuyển thức càng lớn lên chừng đó.
- A-lại-da thức: là cái “ kho chứa” mà Mạt na đã đem mọi thứ cất vào đó và chấp cái kho tàng này là “cái Tôi” cái ngã . . . vì vậy A lại da còn được gọi là “ ngã ái chấp tàng” (bị thức thứ 7 chấp làm “cái Ta”). Đây là một cái kho vĩ đại, có vậy mới chứa hết tất cả những gì mà mạt na muốn nắm giữ trong nhiều đời nhiều kiếp được. Duy Thức học gọi đó là Tàng thức. Vậy A Lại Da thúc còn có 2 tên nữa là thức thứ 8, và Tàng Thức .
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa đã dịch bài kệ 8 Tâm Vương sau đây để dễ thuộc và nhớ công năng của chúng :
Anh em 8 chú một chàng si ( si=si mê = thức thứ 7)
Duy có ý thức rất linh ly ( linh ly= linh động, khôn ngoan)
5 ngưới ngoài cửa lo buôn bán ( 5 thức trước)
Làm chủ trong nhà đệ bát y (đệ bát y = thức thứ 8)
Từ đó ta thấy rằng muốn áp dụng Duy Thức vào sự tu tập, ta phải cần chăm chú vào 2 thức thứ 6 và thứ 7, vì thức thứ 6 thì có thể nghĩ thiện nghĩ ác, toan tính bao la còn thức thứ 7 thì si mê , chấp ngã, chấp pháp, sa đà theo tâm phân biệt “ta” và “người”, “yêu-ghét” “lấy-bỏ” v..v.. càng ngày càng xa lời Phật dạy, quên hẵn đường về Chơn tâm khiến ta trôi lăn mãi trong sanh tử luân hồi. Ta phải tập quán “nhân vô ngã” và “pháp vô ngã” mới mong làm chủ được 2 thức này, lọai dần ngã chấp và pháp chấp. Đây cũng như công việc “gạn cát đãi vàng” cho đến khi rèn luyện xong thì tất cả “thức” đều trở thành “Trí”. Mạt na thức trở thành “Bình Đẳng tánh trí”, A lại da thức thì thành ra “Đại viên cảnh trí” , Ý thức lúc ấy là “Diệu Quan sát trí” còn 5 thức trước chuyển ra “Thành Sở Tác Trí”
Người học giả thấy rõ ràng Tu là chuyển hoá chứ không phải “thêm” hay “bớt” cái gì cả . Ở đây ta cũng thấy được cái “vô tư, vô tội, ngây thơ trong sáng” của 5 thức trước , như vậy tu tập là làm sao để cho “cái thấy chỉ là cái thấy, cái nghe chỉ là cái nghe v..v..” chứ không để cho cái tâm phân biệt (“cái anh Mạt na” tức là khen chê, yêu ghét,lấy bỏ đó chen vào)
- Tàng thức: Tên này chỉ có ở địa vị phàm phu và Thánh hữu học. Khi đến hành Nhị thừa và Niệm bất thối Bồ Tát, thì thức này không còn chứa giữ các tạp nhiễm, nên không còn gọi nó Tàng thức.
- Sơ năng biến thức: Thức này chứa giữ chủng tử của các pháp, rồi biến hiện ra tướng phần là căn thân và thế giới
- Dị thục thức: có ba : Dị thời nhi thục (Khác thời mà chín) và biến dị nhi thục (Biến khác mà chín). Vì thức này duy trì tất cả chủng tử, chủng tử là những công năng, năng lực, quán tính, là hạt giống trong tạng thức, hễ gặp duyên thì khơi dậy. Chủng tử là nhân, khi hiện hành ra gọi là quả. Khi thành Phật, thức này không còn cái tên Dị thục nữa.
- Yêm-ma-la thức: Tàu dịch là “vô cấu thức”, nghĩa là thanh tịnh không cấu nhiễm. Thức này duy chỉ có Phật mới có.
- Tâm: Thức này thông cả Phàm Phu và Phật. Trong các Kinh luận, có chỗ gọi chung cả tám thức là: Tâm, Ý thức ; có chỗ gọi riêng thức thứ 8 là «Tâm”, thức thứ 7 là “Ý” và thức thứ sáu là «Thức».
- Căn bản thức: Bảy thức trước và các pháp nhiễm tịnh, đều y chỉ ở thức này, nên gọi là “căn bản thức”.
- Đệ bát thức: Y theo thứ tự và số mục, thì thức này đang đứng thứ 8, nên gọi là “Đệ bát thức”
- Sở tri y: Là chỉ cho các pháp nhiễm và tịnh lấy thức này làm chỗ y chỉ, nên gọi là “Sở tri y”.
- Nhứt thiết chủng: từ này trong Thành Duy Thức Luận chỉ về “ nhơn tướng” của thức A-lại-da. Thức này cũng thông cả địa vị Thánh, Phàm. “Nhứt thiết chủng” là do tướng phần bi duyên và vật bị giữ thức này, chứ không phải cái bản thể hiện hành của thức này.
- Như lai tàng: Chữ “Tàng” nghĩa là che giấu. Tất cả chúng hữu tình đều sẵn có “trí tuệ đức tướng, pháp thân thanh tịnh của Như Lai”, song vì che giấu vô minh trong tạp nhiễm. “Như lai thanh tịnh pháp thân” là bị che giấu (sở), còn “vô minh tạp nhiễm” là che giấu (năng). Hiệp cả năng và sở là Như lai tàng.
- A-đà-na thức : có ba công năng :
Giữ gìn chủng tử của các pháp
Giữ chịu căn thân và thế giới
Giữ lấy chấp thủ kết nối đời sau.
Nhìn chung, riêng A-lại-da là chỉ cho ”pháp tạp nhiễm”. Còn thức này chuyên chỉ về phần “công đức pháp thanh tịnh” bị che giấu trong vô minh tạp nhiễm, nên gọi là Như lai tàng.[5]
Như vậy, người học giả thấy, mặc dù mỗi thức hoạt động biệt lập khác nhau, nhưng căn bản 8 thức không có sự tách biệt riêng lẽ, hễ một thức có mặt là toàn bộ tổng thể của tâm thức có mặt, chúng cùng chung căn bản A-lại-da là sở y cho thức khác sanh khởi, vận hành. Và các thức khác lại được cái sở duyên tùy thuộc lẫn nhau giữa chủ thể và đối tượng nâng đỡ, cung cấp chất liệu để tạo sự tương tục cho toàn bộ hệ thống thức. Trong quá trình chuyển biến, vận động, cần có sự hợp tác đồng bộ với các tâm sở. Trên cơ sở đó, tùy theo tương ưng mà hành động và giá trị của sự chuyển biến ấy là tốt hay xấu, thiện hay ác, đời sống ca nhân Thánh thiện, cao thượng hay ti tiện thấp hèn.
Về đặc tính của A Lại Da thức, Mạt Na thức và 6 thức kia, có bài tụng cho dễ nhớ như sau ( bài Việt dịch của Hòa Thượng Thiện Hoa ):
Hằng xét đo lường theo chấp ngã
Hữu tình ngày đêm bị mê muội
4 hoặc, 8 đại chung nhau khởi[6]
6 thức gọi là “nhiễm tịnh y”
Bát thức qui cũ tụng cũng có nói thêm :
Thức thứ 8, có Hằng mà không Thẩm xét
Thức thứ 7, vừa Hằng lại vừa Thẩm xét
Thức thứ 6, có Thẩm xét mà không Hằng
5 Thức trước, không Hằng và không Thẩm
III. Hệ Thống Tam Năng Biến
Giờ đây, người học giả đi vào phần chính của vấn đề là “ Như Lai Tạng trong Duy Thức Học”.Trước hết, sẽ phân tích ba loại “Năng biến” để hiểu được tầm quan trọng như thế nào trong đời sống của người tu Phật.
1. Sơ năng biến :
Đọc lại bài tụng Đệ nhứt Năng biến trong Duy Thức Tam Thập Tụng có viết rằng[7]
“Thức đầu A-lại-Da, Dị thục nhứt thiết chủng
Không thể biết chấp thọ, Xứ, liễu thường cùng xúc
Tác ý, thọ, tưởng, tư, tương ưng chỉ xả thọ
Tánh vô phú, vô ký, năm biến hành cũng thế
Hằng chuyển như nước dốc, Vị A La Hán xả”.
Như vậy, A Lại-da được coi là căn bản sanh ra các thức khác, nên nó còn có tên là : “A-lại-da, Nhứt thiết chủng và Dị Thục Thức”. Qua đó ta thấy có ba tướng : Tự tướng, Quả tướng và Nhân tướng.
Tự tướng xưa nay của nó như một cái kho có thể tàng trữ mọi vật. Nhưng cái kho thì dung chứa những vật hữu hình và số lượng có giới hạn, còn tàng thức thì chứa đựng những vật vô hình, nạp thọ tất cả, không hề có giới hạn. Cho nên nó có ba nghĩa : Năng tàng, Sở tàng và Ngã chấp tàng.
- Năng tàng: là chỉ cho thể tánh của thức này có thể chứa đựng chủng tử và sự hiện hữu của các pháp.
- Sở tàng: là chỉ cho môi trường chứa chủng tử và sự hiện hữu của các pháp, nghĩa là thức năng biến là Năng, chủng tử và các pháp hiện hữu là Sở. Thật vậy, nếu không có năng lực duy trì và môi trường lưu trữ, thì tất cả chủng tử hành động tạo tác và sự hiện hữu của các pháp không thể tồn tại, ngay cả kinh nghiệm nhận thức, nhận biết của con người.
- Ngã chấp tàng:là cơ sở phát sinh sự nhận thức phân biệt sai lầm của thức Mạt-na. Nghĩa là thức năng biến thứ II là do thức năng biến thứ I sanh, nhưng nó trở lại chấp trực giác kiến phần của thức năng thứ I làm cái của mình, cho là tự ngã, thành ra có năng sở, bỉ thử, rồi ngã ái phát sinh. Do vậy, ta có thể định vị trực giác kiến phần A-lại-da là sở, trực giác kiến phần Mạt-na là năng. Mạt-na là năng nhiễm ô, A-lại-da là sở nhiễm ô, do đó mới có chúng sanh tạo nghiệp, bị che mờ chân tánh và bị sanh tử luân hồi.
2. Nhị năng biến :
Ta thấy, Mạt-na chủ yếu là suy nghĩ về A-lại-da, các nội dung gồm tạp khí từ vô thỉ của A-lại-da là một cái ngã, nó có nguyên lý đặc thù,nguyên tố phân biệt. Người học giả phân biệt sự vật là do Mạt-na chấp ngã. Một mặt nó nhìn vào A-lại-da, một mặt nó nhìn ý thức thu thập tin tức từ sáu thức trước và ra lệnh trở lại cho chúng. Cho nên Mạt-na có hai chức năng :
- Suy nghĩ về A-lại-da và gán cho A-lại-da một ngã tính.
- Khiến cho A-lại-da nhìn thấy nó là đối tượng.
Thế là từ đó các chủng tử nghiệp đang chìm đắm trong cái tâm tuyệt đối bỗng thức dậy phát triển mà hiện hành ra,được nhận thức bởi 5 giác quan đang quay về phía bên ngoài và được phân biệt bởi Mạt-na thức để hình thành một thế giới đặc thù, gọi là cái được nhìn thấy, được hiển bày tưởng nó là thật. Thật ra, đó chỉ là những phóng ảnh của cái nội dung A-lại-da bị phân biệt, và từ đó sanh ra mọi đau khổ. Do vậy, A-lại-da từ đây không còn là chính nó trong nguyên thủy nữa khi bị cơn gió của nguyên lý đặc thù chứa đầy (tức cảnh giới) thổi, tạo nên những đợt sống sanh diệt không dứt phân biệt, chấp thủ, phiền não, dục vọng tranh nhau hiện hữu. Giờ đây tạp khí trong A-lại-da bị phân chia thành cái nhị biên tính của tất cả hình thức và các loại do tư lương, suy nghĩ, tư lự, nhưng nó chỉ tư lương ở bên ngoài. Tánh cố chấp đó đưa đến nhiều hành vi, tạo tác sai lầm của mỗi cá nhân. Mà sở dĩ tánh cố chấp đeo đẳng theo nó là do sự tương ưng của bốn món phiền não sâu nặng :
- Ngã si : Si mê cố chấp về thân
- Ngã kiến : Kiến chấp thân tứ đại là của ta
- Ngã mạn : Đề cao cái ngã, khinh mạn người khác
- Ngã ái : Đắm nhiễm, đắm trước cái ngã.
Do vậy, nó làm cho chúng sanh nhận thức sai lầm về ngã và pháp. Bên cạnh, nó tương ưng với 5 món Biến hành tâm sở (Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư) trong khắp tất cả pháp, nên biết chúng cũng tương ưng với Mạt-na. Lại có “Huệ tâm sở” và phiền não cũng tương ưng với nó: «Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giãi đãi, Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn, Bất chánh tri». Qua đó ta nghĩ rằng : phàm tâm sở tương ưng với Tâm vương ắt hẳn cùng duyên một cảnh, nhưng hành tướng mỗi thứ một khác. Tâm vương Mạt-na này lấy A-lại-da làm ngã, nên bốn thứ phiền não “Si, kiến, mạn, ái» tương ưng với nó cũng đều duyên vào cái ngã mà sanh khởi, cho nên mỗi thứ đều thêm vào chữ Ngã.
Thật ra, thức A-lại-da bản thân nó là vô ký, nhưng vì có bốn thứ phiền não tương ưng che khuất thể tánh, làm cho con người có cái nhìn không đúng. Nên chi, nó thuộc về tánh hữu phú vô ký. Tuy nhiên, thức này tùy thuộc A-lại-da và theo A-lại-da.A-lại da thọ sanh về cảnh giới nào, thì tại cảnh giới ấy chấp A-lại-da làm ngã, rồi lệ thuộc vào cảnh giới ấy. Như khi A-lại-da thọ sanh về dục giới, thì nó lệ thuộc vào dục giới mà làm Mạt-na của dục giới.
3. Tam năng biến :
Thức này, tác dụng của nó không giống nhau, nên chia làm 6 loại : “Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý”.Hoặc vì sáu thức này có điểm tương đồng, nên gọi một cách tổng quát là Thức năng biến thứ III, Như bài tụng viết rằng :
Kế năng biến thứ ba, có sáu món sai khác
Liễu cảnh là tánh tướng, thiện, ác, bất thiện, vô ký
Đây tâm sở biến hành, Biệt cảnh, thiện, phiền não
Tùy phiền não bất định, ba thọ cùng tương ưng[8].
Nói về sự sai biệt của thức này, đúng ra nó vốn không sai biệt, nhưng vì sáu thức này dựa vào căn để thành lập, nên tùy theo căn mà có sai biệt. Thức này có thể biện biệt được những cảnh thô phù bên ngoài, cho nên đặc biệt gọi tánh và tướng của nó đều là liễu cảnh. Nó thông suốt cả ba tánh : “thiện, ác. Vô ký». Biến hành có 5, biệt cảnh cũng có 5, phiền não có 6, tùy phiền não có 20, bất định có 4, sáu vị như vậy hợp thành 51 tâm sở. Trong tất cả tâm quyết định có ( Biến hành) duyên mỗi cảnh riêng lẻ (Biệt cảnh) mà được sanh, chỉ trong thiện tâm có thể được sanh. Tánh thuộc căn bản phiền não (Phiền não) tánh phiền não phần vị, đẳng lưu (Tùy phiền não) đối với thiện nhiễm v.v.. đều không quyết định ( Bất định).
Tuy nhiên, trong hệ thống tám thức,cũng như hệ thống năng biến, khi sự lưu chuyển từ chủng tử sang hiện hành, từ hiện hành sang chủng tử của tất cả hiện hữu, từ thế giới của tất cả các hiện tượng tâm lý cho đến thế giới thực tại khách quan của mọi hiện tượng sự vật, tất cả đều thuộc vào các đều kiện : Nhân duyên (hạt giống trong Tàng thức) ; Sở duyên ( ối tượng nhận thức) ; Tăng thượng duyên ( các đều kiện tác động vào nhân duyên) và Đẳng vô duyên ( sự trôi chảy tương tục của nhân duyên). Như vậy, hệ thống tám thức được xem như là một tổng thể của Tàng thức, vì trong ý thức có Tàng thức, trong Mạt-na cũng có Tàng thức, và cả 5 thức giác quan cũng có Tàng thức. Có thể nói đây là một hiện tượng bất khả phân ly. Vậy ta có thể khẳng định : A-lại-da là trú xứ của Như lai tánh, vì thế giới khởi sự từ tạp khí và chính tạp khí cũng có tính phổ quát trong A-lại-da. Cho nên người học giả gỡ được cái ảnh hưởng sai lầm, thì toàn bộ hệ thống thức lấy A-lại-da làm trung tâm, sẽ kinh nghiệm một sự đột biến mà thành sự nhận thức thực sự. Sự đột biến này, giúp ta có thể có được sự thể hội về tự chứng Thánh trí cảnh giới, cũng như sự quay trở về Như lai tạng hay về cái an lạc thanh tịnh.
Đến đây, ta đã tạm hiểu tướng trạng và sự vận hành của các thức đối với thức căn bản, nhưng chưa lột hết đạc tính của Như lai tạng. Thế thì sau đây người học giả thử quan sát và tìm hiểu đặc tính của nó có tầm quan trọng như thế nào đối với người tu đạo.
IV. Nhận định về Như Lai Tạng qua Duy Thức Học
Như Lai (Tathagata) một trong 10 hiệu của Phật “không từ đâu đến, không đi về đâu”, là tính thường trụ thường hằng của các pháp, như như bất động không sinh không diệt, không tới không lui, là bản thể, là thực tướng là pháp tánh của mọi sự vật. “Nếu lấy sắc để nhìn ta, lấy âm thanh để cầu ta, đó là kẻ hành tà đạo, chẳng thể thấy Như Lai” Như lai được hiểu là thực tướng của các pháp đó là vô ngã tướng không còn các tướng (Ngã, nhơn chúng sanh, thọ giả).
Như Lai Tạng (Tathagata garbha) còn gọi là Như lai chủng tánh đồng nghĩa với pháp tánh, pháp thân, chơn như, Phật tánh, Niết bàn…Tạng là cái bọc chứa, theo nghĩa ban sơ là cái bọc thai, tạng là giấu kín che phủ phiền não mê lầm, giấu kín che phủ Phật tính là cái mầm giác ngộ vốn có trong mọi chúng sanh. Tạng là chất chứa, Như lai tạng là chất chứa mọi công đức quyền năng của Như lai, là tất cả pháp do Phật giảng dạy tập hợp lại thành Như Lai tạng.
Về mặt ô nhiễm, Như lai tạng là tượng trưng cho thế giới luân hồi sinh diệt, về mặt tịnh Như lai tạng biểu hiện cho Niết bàn giải thóat.
Ở Ấn độ tư tưởng Như lai tạng được thành lập sớm hơn thuyết Duy thức, là một tên khác của A lại da theo Khởi tín luận, tâm sinh diệt bao gồm hai nghĩa Giác và bất giác. Giác xuất phát từ Như lai tạng, bất giác xuất phát từ thức tạng là một loại kho trong đó chứa các chủng tử của Như lai tính, Tathagata-garbha là cái thai trong đó chư Như lai được thai nghén và lớn lên.
Vậy, theo Luận Đại Thừa Khởi Tín, Như lai có ba nghĩa :[9]
- Tánh Như lai (Phật tánh) bị các phiền não che đậy, tức là chỉ cho Chơn như còn bị triền phược, như “vàng” còn ở trong khoáng ; còn có nghĩa là Như lai tại triền, nếu tách Như lai ra khỏi phiền não, vô minh thì Như lai xuất hiện.
- Tánh Như lai bao trùm tất cả các pháp.
- Tánh Như lai là chỗ xuất sanh ra vô lượng công đức.
Tất cả chúng sanh đều có Như lai tạng, có thể thành Như lai nếu biết tháo gỡ tất cả những sở tri chướng và phiền não chướng. Kinh Lăng già cũng nói rằng Alaya thức là biểu hiện của các giai đọan bất tịnh của Như lai tạng, mặt khác nếu A lại da nhận hình ảnh, như một tấm kiếng, không suy nghĩ gọi là vô ký, nhưng do bởi ảnh hưởng của các tập khí chất chứa từ nhiều kiếp, giống như biển lớn sóng cuộn, nhưng dưới lòng biển vẫn bất động, khi nào A lại da vượt lên trên sự phân biệt, được gọi là Như lai tạng.
Trong khi Lăng già chủ trương quan điểm cho rằng Như lai tạng hay A lại da là kho chứa cái bất tịnh cũng như cái tịnh, thì Đại thừa khởi tín luận chỉ rõ tâm Chơn như hay Như lai tạng, mặt tuyệt đối tâm Chơn như là cái tâm tính bất sinh bất diệt, tâm ấy là tâm nhất thể, nhiếp thâu tất cả pháp thế gian cũng như xuất thế gian, tuyệt đối, bình đẳng, ly danh tuyệt tướng. Về mặt tương đối tâm ấy là tâm tầm tứ, bao gồm tự thể, tự tướng và tự dụng:
Tánh Viên giác (Như lai tạng) của chúng hữu tình đều có, chỉ trừ hết vô minh thì Viên giác tánh hiện ra, tánh Viên giác cũng đã sẵn có tự bao giờ: “Nầy Thiện nam tử! Tất cả kinh điển của Như lai nói đều như ngón tay chỉ mặt trăng Viên giác. Vậy các ông phải biết: đây là ngón tay kinh giáo chứ không phải mặt trăng Viên giác. Nếu các ông chỉ cố chấp ngón tay, thì không bao giờ thấy được mặt trăng”
Sanh tử tạp nhiễm chỉ nương nơi Như lai tạng niệm niệm sanh diệt, chứ Như lai tạng thì tự tánh của nó vốn thường trụ nhứt như, bất sanh, bất diệt và luôn luôn hiện hữu, dù người học giả không thấy. Vì vậy Thiền Sư Thường Chiếu nói :
“Thân tuy sống trên đời
Tâm là Như lai tạng
Chiếu rạng cả mười phương
Nhưng tìm thì biệt dạng”.
“Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Những thế giới mình thấy được như thế giới mình đang sống đây, hoặc những thế giới mình không thấy được như thế giới của ngạ quỉ, chư thiên v.v… Tất cả đều không ngoài tâm mà có, nên nói duy tâm. Vạn pháp với muôn hình vạn trạng biến đổi vô cùng vô tận của thế giới này đều do phân biệt – gọi là thức – mà ra, nên nói duy thức. Những người bạn tốt, một cuộc sống ấm no hay một đời sống vô vàn khổ cực với một gia đình bất hạnh, một thế giới bình an hay đầy đau thương chiến tranh đều là chỗ hiện của tự tâm. Một niệm tâm thiện là cái nhân để có một cảnh giới thiện. Một niệm tâm bất thiện là cái nhân để có một cảnh giới bất thiện. Thiên đàng hay địa ngục đều không lìa tâm. Lý duy tâm, duy thức được hiển rõ trong toàn luận, nhất là trong phần sở kiến phật thân ở phần ii, mà sự huân tập chính là nguyên nhân khiến chân thể thanh tịnh phát sinh thành cảnh giới chúng sanh, cũng là điều kiện để một chúng sanh có thể thành phật. Đây là lý do vì sao nhà thiền dạy người “phản quan tự kỷ bổn phận sự”. Có gì không từ tâm sanh mà không quay lại tâm mình?
Luận này đề cập đến chỗ sâu mầu của phật pháp nên với đa số là điều khó tin, khó hiểu. Khó tin, khó hiểu vì chỗ sâu mầu ấy vượt ngoài suy nghĩ thường tình của người đời. Song cái mình không thấy không hẳn nó không có. Kinh hoa nghiêm nói “mặt trời chiếu khắp nhưng người mù chẳng thấy. Chẳng thấy nhưng vẫn được lợi ích”. Cho nên, dù khó tin, khó hiểu thì ta có quyền thắc mắc, tìm hiểu nhưng không nên phỉ báng, chê bai. Vì chê bai là ta đang bít con đường dẫn đến chân lý của chính mình. Một khi chân lý đã bít thì khổ nạn không bao giờ chấm dứt. Không phải do mê chân lý ấy mà chúng sanh đang chịu vô vàn khổ não như hiện nay sao? Vì thế, trong phần cuối là lợi ích và khuyên tu, tổ mã minh nói “có chúng sanh nào đối với luận này sinh lòng hủy báng chẳng tin, sẽ bị tội báo qua vô lượng kiếp và chịu vô vàn khổ não. Cho nên, chúng sanh chỉ nên kính tin, chẳng nên hủy báng”.
Ngài Hám Sơn nói “cứu thế đại bi, vì ngữ nghiệp tối thắng. Phật dùng âm thanh luân ứng cơ thuyết pháp. Mọi lời nói ra, mọi loài đều hiểu nên gọi là tối thắng”.
Theo Duy Thức Tam Thập Tụng, thực tánh của vạn hữu được gọi là chơn pháp thắng nghĩa hay chơn như, hoặc Duy thức tánh. Thắng nghĩa của các pháp này là không có cái tánh chấp ngã, chấp pháp. Mà không có hai tánh chấp ấy thì chơn như hiển bày. Do đó bài tụng viết rằng : “Thử chư pháp thắng nghĩa
Diệc tức thị chơn như
Thường như kỳ tánh cố
Tức Duy thức thực tánh”[10]
Nghĩa là : “ Là thắng nghĩa các pháp
Cũng tức là chơn như
Vì tánh nó thường như
Tức Duy thức thực tánh”
Nguyên lý của Duy thức là sự hủy diệt tận gốc rễ của sự chấp thủ vào chủ tể và đối tượng, nguồn gốc của mọi biến kiến vọng tưởng. Sự chấp thủ năng sở ấy là sự nhận thức sai lầm về ngã và pháp, chúng có gốc rễ sâu xa ở A-lại-da. Do vậy, muốn chứng được Duy thức thực tánh phải bứng tận gốc cả hai cây ngã chấp và pháp chấp mới được.
V. Quá Trình Tu Tập Như Lai Tạng Theo Duy Thức Học
Để đạt được chân lý, không phải chỉ nói suông, mà cần phải có sự nổ lực tu tập từ nơi chính bản thân của mỗi người. Ở đây, vấn đề tu tập là để thể nhập Như lai tạng mà trong Duy thức nói đến sự đột chuyển. Muốn thể nhập Như lai tạng, phải có sự đột chuyển từ chính trong A-lại-da. Bởi vì, thế giới khởi sự từ tạp khí chứa trong A-lại-da. Khi người học giả gỡ bỏ sự sai lầm, thì toàn bộ hệ thống thức lấy A-lại-da làm trung tâm, sẽ kinh nghiệm một sự đột chuyển thành sự nhận thức thực sự. Vì do sự phân biệt sinh ra khổ đau, sanh tử luân hồi, nên khi phân biệt dứt chính là nền tảng của sự giải thoát. Đức Phật dựa vào ba tự tánh để hiện thị các pháp đều không có tự tánh. Đó là tam vô tánh.
1. Nhận thức Tam vô tánh
Theo Duy thức, Đức Phật phá bỏ ba tự tánh : “Y tha khởi tự tánh, Biến kế sở chấp tự tánh và Viên thành thật tự tánh”[11] để qui về chơn tánh, tức ba vô tánh “Tướng vô tánh, Vô tự nhiên tánh, Thắng vô tánh” nhằm xác lập mặt có và không của các pháp. Cho nên Phật “mật ý” nói “hết thảy pháp đều không có tự tánh”, chứ chẳng phải nói “tánh” hoàn toàn không có.
Nhà Duy thức gọi Y tha khởi tự tánh, tức là từ nơi ngoại cảnh nó y vào nội thức mà biến khởi ra, nếu không có nội thức thì hẳn nhiên ngoại cảnh cũng không có.Tuy nhiên, chính nội thức lại tự so sánh sai lầm, chấp ngoại cảnh là thật có, gọi là biến kế sở chấp tự tánh.
Trong bài tụng nói chữ “cũng”, là để hiển thị thắng nghĩa, còn có nhiều tên như Pháp giới, Thật tế v.v… như trong các bộ luận tùy theo nghĩa giải rộng.
Thắng nghĩa này chính là thực tánh Duy thức. Tánh Duy thức lược có hai thứ:
- Một là tánh hư vọng, tức tánh Biến kế sở chấp.
- Hai là tánh chơn thật, tức là tánh Viên thành thật. Vì để giản biệt khác với hư vọng cho nên nói Thật tánh.
Lại có hai tánh:
- Thế tục, tức là Y tha khởi.
- Thắng nghĩa, tức Viên thành thật. Vì để giản biệt khác vói thế tục, cho nên nói Thật tánh.
Cho nên một khi tánh “Y tha” xa rời “Biến kế chấp”, thì “Y tha” kia trở thành thanh tịnh. Lúc ấy “ Viên thành thật tánh” không tìm vẫn có. Vì “ Viên thành thật tánh” là chỉ cho chân tướng thực tại, là pháp tánh chân thật viên mãn. Chính “Viên thành thật” này cũng là “ Y tha khởi”, vì rằng nếu không thấy tự tánh y tha thì không thì không thể nào thấy tánh viên thành. Cho nên, Viên thành thật tánh với y tha tánh không phải một, cũng không phải khác, giống như xa rời nước tức không có sóng, sóng có là vì nước. Một khi dứt “Biến kế chấp” thì “Y tha tánh” không còn, mọi vật trở về tánh chân thật.
2. Ngũ trùng thức quán
Muốn nhận rõ chân lý ngoài tâm không có cảnh, nên Tổ mới chia thức để sở quán theo thứ tự cao thấp, đại khái theo 5 thứ lớp sau :
- Khiển hư tồn thực thức: Người học giả trừ bỏ cái Biến kế sở chấp giả dối, để lại Y tha và Viên thành thật có. Đó là phép quán Duy thức không và hữu tương đối.
- Xã lạm lưu thuần thức: Trong lớp quán thứ nhất, người học giả để lại hai tánh “Y tha và Viên thành”. Trong thức y Y tha gồm có 4 phần : Tướng phần thuộc về cảnh, sợ không khỏi xen lẫn với cảnh ngoài tâm, cho nên người học giả phải bỏ ; còn Kiến phần, Tự chứng phần thuộc về tâm năng duyên chủ quan. Đó là phép quán Duy thức tâm và cảnh tương đối.
- Nhiếp mạt quy bổn thức: Trong lớp quán thứ hai, người học giả đã bỏ sự lộn xộ về cảnh, lưu lại phần thuần túy của tâm. Tuy nhiên còn phải xét lại tự chứng phần của tâm ấy, là bản thể năng biến, tức là Tướng phần và Kiến phần làm tác dụng từ trong tự chứng phần mà biến ra, tức là mạt. Bấy giờ, người học giả thâu ngọn ngành ấy về nơi bản thể của tâm. Đó là phép quán Duy thức tâm và cảnh tương đối.
- Ẩn liệt hiển thắng thức: Trong lớp quán thứ ba, tuy rằng đã thu ngọn về gốc, nhưng trong tâm thể còn có tâm vương và tâm sở. Tâm vương là chủ năng biến, cho nên thắng ; tâm sở tùy thuộc của nó, cho nên liệt. Bấy giờ, người học giả phải làm cho ẩn mất phần liệt nhượt của tâm sở, hiển bày phần ưu thắng của tâm vương. Đó là phép quán Duy thức Vương và Sở tương đối.
- Khiển tướng chứng tánh thức : Trong lớp thứ tư, tuy lưu lại tâm vương, nhưng tâm vương lại có đủ sự tướng và lý tánh. Sự tướng là Y tha khởi tánh, lý tánh là Viên thành tật tánh. Cho nên, người học giả phải dẹp bỏ những sự tướng Y tha, cầu chứng nhập lý tánh Viên thành. Đó là phép quán về sự và lý tương đối.
Trong năm phép quán trên, bốn phép trước là tướng Duy thức, phép cuối là tánh Duy thức. Nghĩa là người học giả bỏ tất cả hiện tượng, phản chiếu vào bản thể thực tánh, bắt đầu từ quan niệm tương đối thô thiển, người học giả lần lượt đến chỗ sâu xa và khế hợp với Chân lý tuyệt đối. Tuy nhiên, trên thực tế sự tu chứng, người học giả không cần trải qua từng lớp một, mà chính trong một lớp, người học giả có thể chứng trí vô lậu để giác ngộ lý trung đạo. Bởi vì, mục đích của cách quán này là đổi Thức thành Trí. Người học giả còn phải tùy duyên mà ngộ nhập, không nên câu nệ một pháp nào, đó là ý nghĩa thiết yếu của người tu đạo.
3. Ngũ vị tu tập
Là nói về sự tu hành của Đại thừa, từ nhân đến quả trải qua 4 A-tăng-tỳ kiếp, gọi là thực hành Bồ Tát đạo, từ nhân hành cho đến quả hành đầy đủ mới chứng quả Phật. Tức là phải trải qua các quả vị : “ Tư lương vị, Gia hành vị, Thông đạt vị, Tu tập vị và Cứu cánh vị”[12].
- Tư Lương Vị:là chuẩn bị hành trang để tham dự vào gia tộc của Như lai tạng. Bồ tát ở địa vị này còn dựa vào bốn lực thù thắng là nội nhân, thiện hữu, tác ý và tư lương, nên đối với nghĩa lý Duy thức tuy có tin hiểu sâu sắc, nhưng chưa có thể hiểu rõ cả năng thủ, sở thủ đều không.
Ở Tư lương vị này tuy chưa dẹp trừ được sở tri chướng (pháp ngã chướng) và phiền não chướng (thân ngã kiến), khi tu thắng hạnh, dầu có ba sự thối thất, nhưng có thể lấy ba sự để tôi luyện tâm mình, khiến được dõng mãnh không bị thối thất việc tu chứng. Ba sự đó là:
- Nghe nói Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề rộng lớn sâu xa, tâm liền thối khuất, bèn dẫn việc của người khác đã tu, đã chứng đại Bồ đề, để tôi luyện tâm mình được dõng mãnh không còn thối thất.
- Nghe nói bố thí Ba la mật v.v… rất khó thực hành, tâm liền thối thất, bền thức tỉnh ý ưa thích của mình có thể tu hạnh bố thí v.v… để tôi luyện tâm mình, khiến dõng mãnh không còn thối thất.
- Nghe nói quả chuyển y viên mãn của các đức Phật rất khó chứng đạt, tâm liền thối khuất, bèn dẫn điều thiện thô thiển của người đem so với nhân tu thù diện của mình để tôi luyện tâm mình, khiến dõng mãnh không thối khuất.
- Gia Hành Vị: là hành động vượt qua sự chấp thủ và sở hay ngã và pháp, chủ thể và đối tượng… do thức biến hiện. Tuy nhiên, gia hành ở đây là sự vượt qua chính thế giới của sự phân biệt, cho rằng có một thực thể. Vì sự phân biệt là sản phẫm của ý niệm, mà ý niệm lệ thuộc vào tư duy nhị nguyên; như thế, càng tư duy càng xa rời thực tại. Ý niệm và thực tại là hai khái niệm bất khả tương dung. Tuy vậy, khi ý niệm được buông xả, phóng thích, ngay tại đó thực tại toàn chân và chính là sự an trú trong Duy thức thực tánh. Gia hành có 4: Noãn, đỉnh, nhẫn, thế đệ nhất pháp. Bốn pháp ấy đều gọi là thuận quyết trạch phần, bởi vì đến chân-thật quyết-trạch phần, gần thấy đạo: tức là gia-hành.
- Thông Đạt Vị: là sự thông suốt của tâm thức có được sau quá trình thực tập gia hạnh. Khi bước qua giai đoạn thứ ba, sự chấp thủ của cả chủ thể và đối tượng đều được buông xả. Tại đây, trí tuệ vô phân biệt là tuệ giác toàn tri. Do đó, thông đạt là trực giác đầu tiên về chân lý tuyệt đối. Bấy giờ, hành giả đã thực sự bước vào thế giới Duy thức thực tánh.
- Tu Tập Vị: Sự thực hành những lời dạy trong giáo lý, bao gồm đầy đủ Giới-Định-Huệ. Tuy nhiên, sự tu tập ở đây chính là con đường Bồ Tát đạo, con đường sự chuyển y trong Tàng thức, một sự đột biến vĩ đại từ trong nguồn mạch sâu xa của tâm thức sau khi hai phiền não cơ bản: “phiền não và sở tri” đã tan biến thành hư vô.
- Cứu Cánh Vị : là địa vị Giác ngộ, giải thoát cao nhất, không còn địa vị nào cao hơn nữa. Vì vậy, đối với Duy thức, cứu cánh tức Niết Bàn, thanh tịnh. Và tính chất cứu cánh là bất tư nghì, thiện, thường, lạc, giải thoát. Như vậy, cứu cánh là Duy thức thực tánh, là Niết bàn, là Vô ngã, là tánh không, là Chơn như và là thực tại hiện hữu vậy.
VI. Bài học kinh nghiệm cho hành giả qua nghiên cứu Duy Thức Học
Bài học dựa vào tính chất của Tàng Thức (vô phú, vô ký), ta thấy rõ Tàng thức rất thụ động, nó không phân biệt tốt xấu; nó thuần túy là “cái kho chứa” vàng bạc châu báu, bông hoa thơm tho v..v.. cũng chứa, mà rác rưởi hôi tanh dơ bẩn cũng chứa hết; cho nên Tàng thức không thể đóng vai trò giải thoát khỏi những tập khí ô nhiễm v..v.. được . Vì thế để “vượt ngục” sinh tử luân hồi chính là vai trò của Ý thức. Chỉ có ý thức – cái thường linh hoạt suy nghĩ bao la vũ trụ đó – suy nghĩ tốt lành cũng nó mà suy nghĩ xấu ác cũng nó. Chính nó đồng thời có thể gieo vào Tàng thức những hạt giống (chủng tử) thánh thiện tốt lành, vừa “kiểm điểm, góp ý, phê bình” để chuyển hoá “bệnh” si mê chấp ngã cuồng dại của Mạt na. Bởi vậy dù tu theo pháp môn nào, người học giả cũng thấy “bí quyết “ vẫn là “cột cái Ý lại” như cột con trâu lòng đừng cho nó chạy tứ tung phá hại lúa mạ của người khác vậy – Muốn tu hành có kết quả, ta phải làm chủ Ý.
Bài học thứ 3 là về cái mà người học giả thường gọi là “nghiệp” . Đức Phật cũng dạy: “Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp; nghiệp là quyến thuộc, là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra. Như thi hào Nguyễn Du cũng được xem như am hiểu Phật Pháp khi Ông viết (trong truyện Kiều):
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẩn trời gần trời xa”
Nói lên trách nhiệm của con người trước luật Nhân Quả : gieo lúa thì được gạo, gieo hạt cam thì hái trái cam, gieo gió thì gặt bão v..v..không thể nào gieo hạt cam mà đòi có trái bưởi được.
Bài học thứ 4 là về tinh thần giáo dục Phật giáo nói chung, tinh thần giáo dục trong GĐPT nói riêng. Người học giả thấy rất rõ sự tiến triễn tâm lý con người phát triển từ bên trong mà ra chứ không phải chỉ từ sự thúc đẩy bên ngoài mà có. Vì thế người học giả cần phải theo kịp tinh thần giaó dục tự chủ, tự giác, năng động, sáng tạo v..v.. một nền giaó dục có tính cách đánh thức con người, và trả con người về cho chính nó ( như người học giả thường nghe chư Phật chư Tổ bảo “ đi tìm bản lai diện mục “ ) mà đức Phật đã dạy cho đệ tử của ngài cách đây gần ba ngàn năm.
C. NHẬN ĐỊNH VÀ KẾT LUẬN
Sự huân tập đóng vai trò thật quan trọng trong đời sống người học giả. Những điều mắt thấy tai nghe, những hành động của thân, miệng, ý v..v.. đươc cất kỹ vào Tàng thức chờ ngày xuất hiện; vì vậy người học giả phải rất cẩn trọng trong việc tu tập của chính bản thân và giáo cho thế hệ sau. Về bản thân, người học giả phải năng tưới tẩm những hạt giống thương yêu hiểu biết, từ bi, trí tuệ , tinh tấn v..v.. vì chúng là những hạt nhân khi đủ nhân duyên sẽ đơm hoa kết trái an lạc, hạnh phúc; những chủng tử xấu, cần phải đề phòng, đừng để chúng được (hay “bị”) huân vào A Lại da Thức, vì khi đủ duyên, chúng sẽ hiện khởi thành những hành vi tội lỗi, lời nói độc ác, có năng lực làm hại mọi người và hại cả bản thân mình .
Phật giáo nói chung và Duy thức nói riêng chủ trương biến đổi Phàm trí ra Thánh trí, chuyển vô minh phiền não ra Niết bàn. Hay nói khác hơn chuyển nhận thức của con người thành trí thức tuyệt đối trực nhận chân lý, mà Duy thức học gọi là chuyển thức phân biệt thành trí vô phân biệt. Trí này là Như lai tạng.
Cho nên, phải biết rằng chúng sanh và Phật cách nhau chỉ một lằn ranh mê, ngộ. Nếu người học giả sống chạy theo sự sai xử của vọng tưởng, hụp lặn trong lục dục thất tình, chạy theo tham,sân, si…gây khổ tạo nghiệp gọi là mê, là chúng sanh, là phàm phu tục tử. Ngược lại, nếu người học giả sống theo tánh giác,quét sạch mọi cỏ rác vọng niệm, tham, sân, si…nội tâm sẽ được tự tại, an nhiên, chẳng động. Nay chỉ cần đốn đi các chấp ngã- chấp pháp bằng cách chuyển hóa tâm thức, sữa đổi cách nhìn sự vật, nhìn bằng con mắt trí tuệ và tự tin vào chơn tâm sẳn có nơi mình. Kiên quyết và cố gắng đi sâu vào nội tâm mà tự khai thác chơn tâm, để cho Như lai tạng hiển bày thì chắc chắn được an lạc, hạnh phúc . Đó là tinh thần cao cả của học thuyết Như lai tạng trong Duy thức học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ. NXB Phương Đông 1989
- HòaThượng Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông. NXB Tôn Giáo, 2008
- Thương Tọa Thích Nhật Từ, Thành Duy THức Luận.Tài liệu nội bộ, 2009, 2014
- Ni Trưởng Huyền Huệ, Luận Duy Thức Tam Thập Tụng. NXB Tôn Giáo, 2005
- Thượng Tọa Thích Thiện Nhơn, Giải Thâm Mật Giảng Yếu, Lưu hành nội bộ, 1988
- Phật Quang Đại Từ Điển
- Hòa Thượng Thích Trí Quang dịch, Kinh Thắng Man,org, 2013
- Tuệ Quang, Duy Thức Học, Huyền-Cơ Phật-Học-Viện
- Việt Dịch : HT.Thiện Siêu , Thành Duy Thức Luận, Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, , Mùa An cư P.L. 2539 – 1995
- Cao Hữu Đính dịch, Đại Thừa Khởi Tín Luận. thuvienhoasen , 2010
- Hòa Thượng Thích Thanh Từ dịch, Kinh Lăng Già Tâm Ấn. Thư Viện Phật Giáo TP Hồ Chí Minh ấn hành,1993
- Thích Duy Lực, Kinh Lăng Già. NXB Tôn Giáo, 2000
- HT Thích Trí Tịnh, Diệu Pháp Liên Hoa, quyển thứ 4. NXB Tôn Giáo, 2010
- HT Thích Thiện Hoa dịch, Phật Học Phổ Thông, quyển 8,NXB Hương Đạo, 1958
[1] Albert Einstein
[2] . Thành Duy Thức Luận, Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang Việt dịch : Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Mùa An cư P.L. 2539 – 1995
[3] TT Thích Nhật Từ,Thành Duy Thức Luận.Tài liệu nội bộ, Bài 1, tr 2, 2009
[4] HT Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, tr 20, 2008
[5]. HT Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, tr 84 ~87, 2008
[6]. 4 hoặc = 4 căn bản phiền não : Si, Kiến, Mạn, Ái ; 8 đại = 8 món tùy phiền não
[7] NT Huyền Huệ, Luận Duy Thức Tam Thập Tụng, tr12, 2005
[8] NT Huyền Huệ, Luận Duy Thức Tam Thập Tụng, 2005
[9] Cao Hữu Đính dịch.2010
[10] NT Huyền Huệ, Luận Duy Thức Tam Thập Tụng, tr 45, 2005
[11] TT Thích Nhật Từ, Thành Duy Thức Luận. Lưu hành nội bộ.bài 16, tr 1, 2014
[12] TT Thích Nhật Từ, Thành Duy Thức Luận, Tài liệu nội bộ, bài 17 tr1~5, 2014
Nguồn: Sưu tầm.




